– Ta chưa chết, – người nọ lắc đầu, – tất chẳng phải ma quỷ.
Nhưng lời Quý Ly cứ trôi tuột khỏi tai thằng bé. Cậu ta vẫn lắp bắp:
– Ch-chùa mà có ma à, nhẽ nào lại thế! Thôi xong, chùa này không linh rồi! Chắc chó của mình cũng kẹt lại mất thôi!
Nghĩ tới nắm tro con con của chú chó vàng, Nguyên hoảng hốt lao ra bờ hồ, chắc thằng bé định vớt lại nắm tro rồi tìm một chốn khác thiêng hơn mà rải. Vừa đi Nguyên vừa ngoái đầu, cậu dứ nắm đấm và hét lên với con ma rằng chớ có bén gót theo cậu.
Đến nơi, Nguyên hớt hải nhoài người ra ngó nghiêng. Giữa màn mưa lăn tăn, thằng bé trông thấy đống tro mịn đã loang thành dải bạc, bủa xa theo từng vòng gợn nước rồi chìm dần. Mưa càng rơi tro chìm càng nhanh, Nguyên kêu thất thanh:
Nói xong, Nguyên mới nhớ chực ban nãy cũng chính cậu là người cầm cành khô gẩy tro ra xa cho được gần Quan Âm. Đúng thật là tính già hóa non, Kinh Phật chưa thấy đâu chó đã phải vất vưởng thành ma, nghĩ vậy, thằng bé bần thần ngồi chồm hổm, thẫn thờ nhìn dòng tro chìm lỉm dưới mặt nước. Giọng cậu nghe sao mà tỉ tê, ủ dột:
Lê Quý Ly đứng lặng phía sau, nơi quê nhà y từng thấy bao anh nhi khảng khái mà ít đứa bi lụy hồn nhiên đến vậy. Chợt nhớ khi Hán Thương tròn một tuổi cũng từng òa khóc vòi một búp sen. Có lẽ hình ảnh ấy vừa chồng lên cái tướng ngồi thu lu bên hồ và nó đã chạm vào một thứ gì trong lòng kẻ bơ vơ xa xứ như Quý Ly rồi khiến thứ ấy vỡ đất mọc lên một mầm xanh. Quý Ly hơi mỉm cười, giọng y trầm và ấm:
– Linh cẩu nghe Kinh Phật nơi tượng Quan Âm, trong bảy bảy bốn chín ngày sẽ rời bến vô minh, nương nghiệp thiện mà qua cõi khác. Cậu chớ chấp niệm.
Lưu Nguyên vẫn ủ ê, cái áo gió trùm trên đầu cậu ướt dầm một mảng. Cậu ngẩng mặt lườm Quý Ly bằng hai con mắt đỏ hoe, tròn xoe như mắt chó:
Nguyên chột dạ cụp mắt, bặm môi, rồi thằng bé lại gãi đầu gãi tai, giọng sụt sùi:
Dường như người nọ chẳng hề để bụng, y thong dong bước về phía mái hiên chánh điện. Gió lùa tứ bề, mưa bụi như tơ, Quý Ly gọi:
Lý ra thằng bé nên bỏ về, cậu ta không nên giao du với một con ma. Nguyên biết vậy, thực chất ai cũng biết vậy. Nhưng thay vì bỏ về, Nguyên ậm ừ đi theo. Thằng bé quệt tóc mai bết nước, liếm đôi môi khô rồi len lén ngắm nghía ông ma. Dưới bóng chiều và màn mưa bụi thiếu sức sống, tóc người đàn ông bới cao, lưng thẳng tựa cán giáo, hai mắt y sâu và thẫm đen như mực. Đôi mắt nọ như đang nhìn điều gì diệu vợi lắm chứ chẳng phải khoảng sân con con trong cơn mưa tầm tã. Sự u tịch ấy chợt thôi thúc Nguyên, khiến bao nỗi tò mò ùn ùn dâng lên trong dạ. Đúng lúc ấy, người đàn ông chợt nghiêng đầu, cười mà bảo:
Thực chất Nguyên có nhiều thắc mắc lắm, nhưng đồng thời linh tính cũng mách bảo Nguyên rằng cậu chẳng nên hỏi những điều ấy nếu không muốn phiền vạ vào thân. Thế là Nguyên nhìn Quý Ly từ đầu tới chân, rồi lại nhìn Quý Ly từ chân tới đầu.
Có vẻ thấy ánh mắt ông ma nhìn mình kỳ cục, ngỡ ngàng quá, Nguyên thử nhẩm lại và thấy cái vấn đề mình hỏi quả là quái chiêu thật. Nhẽ ra thằng bé nên hỏi về cái mũ lạ, về bộ đồ hay về đôi hài; hoặc hỏi y là ma thời nào cũng hay, tóm lại là hỏi gì cũng được, miễn không phải hỏi chuyện vẽ mày. Cái phát hiện ấy khiến Nguyên vội lúng túng phân bua:
Quý Ly lắc đầu, vẫn nhìn Nguyên chăm chăm nhưng dường như có điều gì trong y vừa dịu đi ít chút:
– Chỗ ta từng có tục xăm mình, quân sĩ thường thích xăm hình thái long ở bụng, ở lưng và ở hai bắp đùi, nhưng tuyệt chẳng có ai lấy mực mà vẽ lông mày cả.
Thấy Quý Ly không những chẳng giận mà còn giảng giải ôn tồn, Nguyên càng mạnh dạn hơn:
– Xăm trổ cũng thành tục được à? Ông sống ở đâu mà thoáng quá vậy?
– Ta vốn người Đại Việt, tất sống ở Đại Việt. – Quý Ly đáp.
Thế là thằng bé xoa cằm, nghĩ lung lắm. Quý Ly nghiêng đầu nhìn cậu chàng, trong ánh mắt nhen nhóm phần nào hy vọng. Rồi đột nhiên, Nguyên búng tay cái “chóc”:
Sau cái câu ấy, chẳng hiểu sao Nguyên nghĩ mình đã đùa rất hay, và cũng không hiểu sao Nguyên chẳng còn cảm thấy cái nút tắc cống vẫn lèn trên ngực, trong cổ cậu đâu nữa, cứ như nó thoắt bật tung lên giời rồi biến mất, vậy là cậu càng buôn hứng chí hơn:
– Tôi nói chứ, ở chỗ tôi mà xăm mình là què giò liền. – Cậu ghé lại gần thì thầm với Quý Ly. – Chỉ có dân anh chị mới vẩy mực thôi.
Quý Ly nghe vậy thì nghiêng đầu trầm ngâm. Y không nói lời nào, ấy mà chẳng hiểu sao ánh mắt đối phương cứ cho Nguyên cái cảm giác y hoàn toàn nhập tâm vào câu chuyện của cậu, dù đó chỉ là vài lời báp xáp. Có lẽ ấy chính là biệt tài của Quý Ly – tức là cho người ta cái cảm tưởng được trọng dụng, được quan tâm và được hiểu rõ tường tận, ấy là sức lôi cuốn bẩm sinh của một nhà lãnh đạo. Thế nhưng hiện tại thì Nguyên chưa biết được điều này. Thằng bé chỉ thấy vui, lòng rộn như trống hội. Mà cái niềm vui đó cứ chực chảy tràn ra khỏi hai con mắt tròn xoe khi Nguyên nhìn người bạn mới. Quý Ly nhận ra ngay:
– Mẹ tôi. Không sai vào đâu được. – Nguyên đáp chắc như đinh đóng cột.
– Ừ. Mẹ tôi không chấp nhận được cả việc nhuộm tóc chứ đừng nói là xăm trổ. Kể ông nghe, hồi bảy tuổi tôi theo mấy anh hàng xóm đi nhuộm một chỏm tóc xanh lét trên đỉnh đầu, (vừa nói Nguyên vừa chỉ trán mình) mẹ tôi dần cho một trận nhừ đòn rồi lôi ra hàng cạo tróc lóc đầu tôi luôn. Y như sư sãi mới xuống tóc!
Nguyên gật đầu lia lịa. Dẫu có gì đó không đúng nhưng Nguyên nghĩ mình đã hiểu ý Quý Ly. Có lẽ y không nói đến “các nhà sư”, có lẽ y đang nói đến “phong cách của các nhà sư”, hoặc “tóc tai của các nhà sư”. Đang hứng chí, Nguyên lại kể cho bạn ma của mình nghe một tá những câu chuyện không đầu không đuôi khác.
Trầm Chu