I.
Hắn từng thử chết vài lần trước khi đến đây những không thành. May sao, hắn được cho một cơ hội để làm lại, và hắn thề rằng sẽ dùng nửa đời sau để bù đắp cho những lỗi lầm hắn gây ra.
***
Sim đã nấu xong bát canh chua, cắt xong mấy miếng giò và dọn ra sập một mâm cơm tươm tất, chỉ chờ anh mình dậy ăn. Bên cạnh nàng, đúng hơn là ngay giữa sập, một tên đàn ông quá tuổi ba mươi đang thảnh thơi nằm đọc sách, miệng ngậm tăm tre và nhàn nhã rung chân. Đó là anh trai nàng - người biệt tăm biệt tích suốt mười mấy năm bỗng dưng trở về. Hắn không bận tâm việc Sim ngồi ở rìa sập nhìn mình mà chỉ dán mắt vào cuốn sách ở trước mặt. Miệng lúc nào cũng in một nụ cười đểu cáng, nom thật chẳng giống ai.
Nhìn cuốn sách không chút bụi bẩn trên tay kẻ nọ, Sim lại tiếc hùi hụi. Vì nếu như năm xưa nàng không dùng số tiền mình dành dụm để chuộc sách lại cho hắn, thì ít ra bây giờ nàng cũng mua được cái khung cửi để dựa vào mà sống. Khổ nỗi, lúc ấy đầu Sim lại chỉ có duy nhất một ý: chuộc sách cho anh.
Thấy mắt Sim dán chặt vào cuốn sách trên tay mình, hắn cười rồi hỏi:
- Muốn nghe không? Tao đọc cho mày nghe cái thứ nhục nhã này lần cuối.
Sim ậm ừ định trả lời là "Có", nhưng khi nghe tiếp vế sau, đến cái chữ "nhục" mà hắn cố tình nhấn giọng, nàng lại im lặng không đáp lời. Hắn thấy thế thì không hỏi thêm nữa, song, Sim vẫn nghe được giọng anh mình thầm thì đọc lại.
Bỗng dưng, nàng nhớ đến ngày mình chuộc sách từ tay cậu học trò kia, hắn vẫn ở mãi trên kinh chưa về. Đó là một buổi chiều tháng năm, khi làng Liễu nơi nàng sống đón trận mưa rào đầu tiên, Sim đứng dưới làn nước, ôm chặt cuốn sách vào lòng, nâng niu và trân quý như cách anh trai nàng từng gìn giữ nó vào nhiều năm trước. Nàng không biết chữ, nên phải cắp nón sang làng bên nhờ thầy đồ ở đó đọc cho nghe. Thầy đồ đọc hay lắm, nhưng Sim vẫn thèm được thấy hắn vừa đọc sách vừa à ơi ru mình như những ngày còn nhỏ. Bây giờ, hắn về rồi, hắn cũng đọc cho nàng nghe nữa, chỉ có điều...
Tiếng cười khúc khích vang lên bên tai, kéo Sim ra khỏi những thanh âm từ quá khứ, hắn không đọc nữa, nhưng bắt đầu kể về những điều mà thậm chí nàng cũng không biết chúng là gì, nghiêm trọng ra sao và ảnh hướng đến hắn như thế nào. Có điều, Sim hiểu, hắn không kể cho nàng, mà chỉ nói ra cho lòng bớt nặng, cho tâm trạng có thể tốt hơn trước được phần nào:
- Mày biết không? Đống sách này, chẳng qua chỉ là trò múa rìu qua mắt thợ, lừa gạt trẻ con! Những đứa viết ra nó, nếu không phải bọn vua quan quý tộc thì cũng là những kẻ hoặc giàu sang, hoặc tai to mặt lớn. Mà cái ngữ chúng nó, đã có ai từng phải vùng vẫy trong cảnh cùng cực để rồi đi viết sách dạy đời, giễu người hay chưa?
Trong vô thức, Sim lắc đầu. Hắn lại càng khoái chí cười to.
- Ha! Thấy không? Đến cả một đứa ngu ngốc như mày cũng biết chúng nó nói điêu! Còn gì là bộ dáng thanh tao, nhã nhặn của những bậc thánh hiền nữa các Ngài ơi! – Hắn cười sặc sụa, phấn khích vỗ đùi:
- Đã thế, ông phải xé ra, xé cho đẹp mặt cái lũ lừa đảo chúng bay! Này thì lên mặt dạy đời, này thì "không lừa lọc, trộm cắp"! - Hắn xé cuốn sách làm đôi, rồi lại xé tiếp làm ba, làm bốn, như thể không muốn để ai biết trong đó viết gì. Miệng vẫn lẩm bẩm - Mẹ cha cái lũ khốn nạn! Mày bảo ông là máu mủ tình thâm, thâm thâm cái chó! Chẳng qua là khi ấy ông còn nhỏ, em ông còn bệnh tật chứ không ông cũng đã chửi vào mặt cái quân máu lạnh như chúng bay từ lâu rồi! Chúng bay bảo lừa đảo là trái với đạo đức? Vậy thì ông cứ làm đấy! Ông lừa cả cha lẫn mẹ, cả con cháu chúng bay ấy thì sao nào?
Chửi nhiều nên hắn mệt, cứ thở hồng hộc như chó phải nắng, rồi hắn tức giận ném cuốn sách chỉ còn là những mảnh giấy vụn trên tay ra ngoài cửa. Sim ấm ức trông theo thứ từng là cả một tuổi thơ hạnh phúc, lại quay vào nhìn kẻ nọ đã với lấy đũa, xới cơm và ăn uống ngon lành. Nàng từng nghe chú bác trong họ kể về hắn của bây giờ, một người anh trai hoàn toàn khác với những gì nàng từng biết. Ừ thì, cái người từng coi sách như sinh mạng, coi thơ như cuộc sống, cái người từng rứt ruột bán đi tập thơ mình tâm đắc để lấy tiền mai táng cho u, cái người anh tên Văn Lương mà nàng luôn ngưỡng mộ bây giờ đã không còn nữa.
Hắn vẫn ăn cơm, nàng vẫn luôn ngồi đấy, mỗi người một việc cho đến khi đáy bát hết nhẵn, hắn mới để ý đến em gái ngồi bên cạnh. Thấy nàng chẳng buồn động đũa, hắn hỏi:
- Mày không ăn à? Cơm có độc hay sao? – Rồi bỗng dưng, hắn cười xòa, xua tay – À không, mày là người nấu chứ ai. Giữ eo đó hả, cứ giữ đi, có giữ cũng chẳng ma nào thèm lấy!
Nói rồi lại lăn ra sập cười nắc nẻ.
Sim uất lắm, muốn hét lên phản kháng nhưng lại nghĩ vì mình mà hắn mới trở nên như thế, cổ họng nàng liền nghẹn cứng. Họ hàng không hoàn toàn đúng, hắn cũng không hoàn toàn sai, người sai là Sim mới phải. Lẽ ra khi ấy nàng không nên ốm, lẽ ra khi ấy hắn nên bỏ mặc nàng bệnh tật, lẽ ra những chuyện như không xảy ra...
Rồi bất thình lình, như một kẻ lành lặn đột ngột hay tin mình bị câm, Sim gắp cà, và cơm, rồi cố nhét tất cả những gì còn lại trên mâm vào miệng. Thật nhiều, thật đầy, như thể để hắn sợ mà không nói thêm một lời nào nữa, hoặc có lẽ nàng nghĩ, thức ăn có thể dồn cái uất ức vào bên trong, ngăn cho chúng không tràn ra cuống họng mình nữa. Đến chừng sắp nghẹn, Sim mới chịu dừng lại, nước mắt ứa ra rồi nàng thây kệ, cũng đúng thôi, khi con người ta đang chìm đắm trong buồn đau và mất mát, họ sẽ chẳng bao giờ quan tâm đến những hiện tượng từ lâu đã trở thành bình thường ấy nữa.
Miếng cơm trong miệng nàng bỗng dưng không còn mùi vị nữa, dẫu cho từ trước đến nay, chúng dân làng Liễu vẫn thổi tai nhau rằng nàng Sim nhà họ Đặng khéo tay hay làm, cơm canh lúc nào cũng chuẩn bị tươm tất, ngon miệng. Có lẽ họ nói điêu, mà cũng có khi điêu thật, làm gì có ai lại đi khen đống cơm nhão như cám lợn ấy ngon bao giờ cơ chứ! Nghĩ thế, Sim thẹn đỏ cả tai, không nói không rằng, nàng bỏ vào buồng để lại người anh trai đang ôm bụng cười sặc sụa. Dẫu cho, trong cái lúc đang cố nhồi cơm vào miệng, Sim thoáng thấy sắc mặt anh mình hoang mang. Có lẽ nàng vẫn mong, rằng sâu trong cái vỏ bọc của một thằng lòng lang dạ sói, anh nàng vẫn là cậu học trò tên Văn Lương của ngày trước.
II.
Ngồi khóc trong buồng, Sim nghe thấy tiếng người ta rêu rao ngoài ngõ, cả trẻ con và người lớn, lâu lâu lại có tiếng mấy cậu thanh niên bàn nhau về kỳ thi Hương sắp được tổ chức. Nàng ngó thử ra buồng ngoài – nơi chỉ còn đúng một mâm cơm hết nhẵn. Như một lẽ hiển nhiên, hắn đi rồi, đi hành nghề của hắn.
Lương là một thầy bói dỏm, sở dĩ nói là dỏm, vì hắn chẳng có phép thần thông nào có thể đoán trước được tương lai. Dẫu vậy, hắn có cái miệng ngọt để chào khách mua bùa, cái đầu khôn để lựa người mà xem quẻ, và thứ chốt hạ để lừa tiền mà không bị quan binh bắt phạt là chút lĩ lẽ của người có học. Để giả như hắn có bói sai thì người ta cũng đành chẹp miệng oán thầm: chắc năng lực không đủ. Chỉ người đủ khôn mới biết được rằng, ấy là lừa đảo!
Lương lười làm, nhát cáy, lại luộm thuộm nhưng ham ăn và luôn chỉnh tề áo mũ khi có phiên chợ, hội làng hay ông học trò nào đó lều chõng đi thi. Thực ra không cần cụ thể đến thế, chỗ nào đông người, hắn sẽ khua gậy mà đi. Hắn đi lừa tiền những nhà giàu có, bán bùa đểu cho bọn bần hèn và đôi khi sẽ hợp với lão phú ông để lừa vài thằng quan huyện rồi vui vẻ gom tiền chạy biến. Lương lang bạt khắp nơi, xứ Đoài nhớ mặt thì chạy sang xứ Đông, xứ Đông đuổi đánh thì xách dép trốn sang trấn Sơn Nam, Kinh Bắc. Chả khéo mà đi hết cái đại Việt! Nhưng kể từ khi rời khỏi quê nhà, hắn đã không quay về nơi ấy một lần nào nữa cho đến một hôm nọ.
Hắn ngồi nhậu cùng gã thầy bói đã lang bạt cùng mình suốt những năm khốn khó ở một quán ven sông, nơi gần kinh vua và có khí hậu mát mẻ. Xét về quang cảnh, lẽ ra nên gọi là giờ trà chiều của cánh mày râu, nhưng khi nhìn vào hai vò rượu hoa mơ đặt trên mặt bàn, người ta chỉ đành chẹp miệng bảo rằng đây là cuộc nhậu không mồi của những thằng vô công rỗi nghề. Hắn ngồi ở vị trí chính giữa, tu ừng ực vò rượu đầy ắp, mãi đến khi không còn một giọt nào mới tấm tắc khen:
- Hôm nay trời đẹp quá thể! – Nhưng rồi bỗng dưng nét mặt lại đầy nuối tiếc, có lẽ hắn đã nhận ra điều thiếu thốn ở buổi nhậu này – Giá mà có ít tiền mua mồi nhắm thì hay!
Có gã đàn ông ngồi ở phía bàn đối diện, nghe chừng là bạn lâu năm, vóc dáng mảnh mai hơn hắn, nhưng trông già và gian hơn hắn nhiều lắm. Gã đang xỉa răng, nghe vậy thì chẹp miệng một cái thật to:
- Mày là đứa khôn nhất đám chúng ta, lừa được cả mấy thằng quan huyện, thiếu gì chút tiền cỏn con ấy mà than với chả vãn!
Lương nghe rồi cười khẩy, trong cơn say, hắn nện vò đất xuống bàn ra vẻ tức tối nhưng lại cất giọng thản nhiên:
- Tao đổ tiền vào chọi gà, lỗ hết rồi.
Gã đối diện giương tròng mắt lên trời, bĩu môi:
- Cho mày chết!
Thua cược, trắng tay, nợ nần, có gì xấu ở thằng này mà gã chưa từng thấy nữa? Gã không lấy làm lo lắng, vì gã biết nó đủ khôn để hồi lại vốn và tiếp tục trang trải cuộc đời. Dẫu sao trước kia đã suýt chết vài lần rồi, bây giờ có chết luôn cũng chẳng có gì đau đớn cả. Sau này có lẽ gã và hắn vẫn sẽ hội ngộ ở một nơi nào đó dưới địa ngục, hoặc là hắn ở dưới gã vài tầng, lừa đảo mà, sớm hay muộn rồi cũng chết trong tội lỗi. Thế thôi!
- Nhưng tao định về quê.
Thua cược thì trốn về quê vay tiền thầy u vốn đã là điều hết sức quen thuộc của những kẻ đi làm xa như hắn, nhưng khi Lương nói thế, gã nọ sặc cả rượu, ho khù khụ mãi:
- Thật không?
- Ừ. Tao nghĩ rồi.
- Thế cũng được.
Gã uống nốt ít rượu còn trong cốc, thở dài một hơn thanh thản. Gã làm cái nghề này, suy cho cùng cũng chỉ vì biếng làm và muốn ăn chơi mà thôi, gã vẫn nhát, vẫn biết sợ và đồng cảm với người ta. Mỗi lần nhìn thấy Lương, gã vẫn xót thầm cho u hắn dưới mộ và con em gái đang một mình một xó ở quê vì có một thằng con, người anh bội bạc. Song gã không khuyên được nên chẳng nhắc tới nữa, thiết nghĩ, có lẽ bây giờ hắn đã biết thương gia đình mình rồi. Thế mà chưa cảm động được bao lâu, Lương lại tạt cho gã một gáo nước lạnh, hắn cười hề hề rồi bắt đầu kể:
- Dù gì thì cái nhà ấy cũng do lão già kia để lại, tao còn là con cả, rồi cũng là của tao hết! Sau này tao bán đi cũng được khối tiền. Lấy để gỡ vấy ván bài thua và trả tiền nợ vẫn còn dư nhiều lắm, hay hôm nào bán được, tao đãi mày một bữa gỏi cá?! Đúng rồi, nghe nói nhà phú ông ở gần đấy có thằng con trai thi mãi vẫn không đỗ, mà sắp tới người ta mở kì thi Hương rồi, có lẽ nó cần tìm "thầy bói", mà con mụ vợ lão ấy cũng ngu...
Trong tiếng cười phấn khích của Văn Lương, nét mặt gã cứng lại, rồi gã không nói gì nữa. Nhưng trong thâm tâm vẫn ngậm ngùi, chua xót. Ra thế, ra là thế! Tiền, có thể thể nuôi ra lòng tham, và lòng tham, có thể biến người ta thành những kẻ vô tình. Như gã hoặc hắn. Nhưng gã đâu có ngờ, tiền, cũng có thể khiến một kẻ hiền lành tốt bụng ruồng bỏ chính gia đình mình.
III.
Sau những buổi lê la khắp các hàng quán để bắn tin về một ông thầy bói có kinh niên trong nghề, thì hôm nay hắn đã ăn mặc đường hoàng, vẽ thêm bộ ria và dán một ít đuôi trâu làm râu giả, tay chống gậy, tay chắp sau hông lững thững đi ra chợ. Hắn năm nay cũng chỉ mới ngoài ba mươi, cách ngày lên lão còn xa lắm. Nhưng nhờ lớp hóa trang, đi đâu, người ta cũng kính cẩn cúi chào, làm gì, người ta cũng chăm chú nhìn theo, chỉ sợ hắn trượt vỏ chuối của lũ trẻ con mà lăn đùng ra chết.
Mặt trời lên cao, hắn đi tới cạnh một hàng nước nhỏ bên gốc cây đề, lặng lẽ rải đồ nghề rồi ngồi luôn ở đấy. Lưng thẳng, đầu chếch và để hờ hai tay lên đầu gối, ra vẻ người có học rồi lại tiếp tục ôm cây đợi thỏ. Một lúc sau, hàng nước bên cạnh đã có khách tới, người ta nói chuyện rôm rả, và rồi người ta bắt đầu chú ý đến ông thầy bói đang ngồi viết chữ bên cạnh. Như gà rừng gặp thóc, mắt họ sáng quắc, rồi chẳng còn ai quan tâm đến câu chuyện đang kể nữa, họ chăm chú nhìn Lương thể hiện, thi thoảng lại ồ lên trầm trồ. Người có chữ ở làng này không phải ít, nhưng đều là con nhà giàu, ví như có tổng mười người biết viết, thì phải đến chín người là con nhà phú ông, người còn lại mười mươi là học trộm! Vậy nên, chẳng ngoa khi nói đây là lần đầu tiên họ được nhìn thấy cái chữ.
Lương biết rõ, vì vậy, hắn càng kiêu ngạo hơn, đầu bút trên tay hắn uốn éo những đường điệu nghệ và khoa trương. Hắn thích người ta nhìn mình trong ngưỡng mộ, và rồi lòng non lòng già lại thầm thì ghen tị, như hắn của rất nhiều năm về trước. Không, người ta chẳng bao giờ ngừng được việc ghen tị, đó là bản năng, một bản năng lặp đi lặp lại như vòng tuần hoàn cho đến khi họ chết. Lương cứ suy đi nghĩ lại những điều như thế, cho đến khi sạp hàng phía sâu trong góc chợ vang lên tiếng quát tháo inh ỏi, tiếng khóc lóc thảm thương và những âm thanh xì xào bàn tán.
Chưa kịp hỏi chuyện, một vị khách ở hàng nước bên cạnh đã chẹp miệng nói giễu:
- Các bác thấy không? Con mụ vợ phú ông lại vác xác ra chợ rồi đấy! Ôi cái thứ gì đâu mà đanh đá, đành hanh, không biết lại chửi đến bao giờ nữa?! Thương cho cô chủ sạp, hôm nào cũng bị mụ và mấy thằng hầu làm khó, báo hại mất đi bao nhiêu khách quen!
- Dào ôi, con mụ ấy thì mười mươi rồi còn gì nữa! Cậy giàu nên ra uy chứ sao, nhìn vênh mặt oai oai thế thôi, chứ sau cùng mụ vẫn đẻ ra một thằng ăn hại. Đừng nói là thi mãi không đỗ, vặt mỗi quả mít cũng làm không xong! Phú ông quả này xong rồi, cơ nghiệp để lại cho mỗi một thằng con, nó phá hết!
- Ấy chết! Các bác đừng nói thế, con bà la sát kia nó lại kéo đến rủa quán tôi! Lần trước thóc nhà tôi bị chuột cắn, lỗ biết bao nhiêu tiền vẫn chưa bù lại được, còn mỗi cái sạp hàng này để kiếm ăn, mụ đến mụ phá nữa thì nhà tôi sống làm sao nổi! – Bà chủ nghe vậy liền nhanh miệng can ngăn, thế là cái sự của nhà phú ông vì thế mà gác lại, không ai nói thêm câu nào nữa.
Chừng một lúc sau, hắn thấy bóng mụ vợ phú ông đủng đỉnh đi tới, hai bên là hai thằng hầu đang í ới chạy theo sau. Mặt mụ không còn vẻ gì là bực tức nữa, xen vào đó là tiếng cười vui vẻ cùng giọng nói ngọt như đường phèn.
- Con chào thầy ạ! Ối chà, sao thầy không ngồi vào trong bóng cây này cho mát ạ?
Thế là, hắn biết chắc con mồi đã mắc câu.
Mụ vợ lôi từ trong vạt áo ra một túi tiền đầy ắp, đặt lên tay "ông thầy già " rồi to nhỏ gì đó rất quan trọng. Đến khi người ta biết ấy là chuyện gì thì đã là ngày hôm sau.
Trên bờ đê, có hai bóng lưng đổ dài lên thảm cỏ, phú ông đứng im như pho tượng, bên cạnh lão là thằng hầu đang quỳ gối khóc lóc thảm thiết. Chỉ riêng mụ vợ lão là vẫn chưa thể tin vào sự thật phũ phàng ấy, mụ lặng người, và cứ thất thần như thế mãi, mặc cho thằng hậu nọ có lay chân mình đến trời đất quay cuồng. Thấy bà chủ như vậy, nó chỉ đành sụt sùi trình bày:
- Cậu đem hết tiền trong nhà đi đá gà, rồi thua nên không có để trả. Người ta thấy thế thì lao vào đánh, họ đông nên một mình con không cản được, đến lúc con gọi người tới thì đã không thấy cậu đâu... Con cứ nghĩ là cậu trốn về nhà rồi nên mới... – Nói đến đây, nó lại gằm mặt khóc – Có lẽ ông thầy bói kia đoán sai bà ạ!
Mụ vừa nghe xong, hai mắt đã ầng ậng nước, môi mấp máy mà chẳng nói lên lời, mụ khuỵu xuống thảm có đẫm nước cạnh xác con, ôm nó vào lòng âu yếm. Mụ đâu có ngờ, con trai của mụ, cốt nhục của mụ, đứa con mà mụ hết mực cưng chiều nuôi nấng lại ra đi trong cơ thể đầy thương tích, trong sóng nước lạnh lẽo của buổi khuya. Có lẽ nó mệt lắm! Rồi mụ nấc lên những âm thanh chua xót, mụ chửi cha chửi mẹ những thằng đã đánh con mụ, mụ chửi mụ ngu vì chẳng biết dạy con đúng mực, chửi thằng hầu thất trách làm con mụ lạnh cả đêm, rồi mụ chửi sang thằng thầy bói. Ừ! Chính nó, chính thằng khốn nạn ấy đã khiên con trai mụ ra nông nỗi này.
- Cái con sói già khốn nạn! Cái thằng vô lương tâm! Mày lừa tiền của nhà bà đã đành, nay mày lại lừa luôn cả mạng con bà! Thằng mất dạy, cái thằng mỏi khoét! Sao mày không khoét luôn cái lương tâm thối rữa của mày đi!
Lương đứng chết lặng trong đám đông gần đó, bàng hoàng nhìn về phía "cuốn chiếu" đang nằm gọn trên thảm cỏ xanh rờn, lại nhìn vợ chồng phú ông người im như pho tượng, kẻ gào thét vang trời. Từ lúc sa vào con đường lầm lỗi, hắn đã sớm quen với những cảnh đau thương mất mát do mình gây ra, và hắn nghĩ rằng những thứ ấy chẳng nhằm nhò gì so với quá khứ của bản thân. Nhưng chuyện đã khác rồi, giờ đây, hắn đã trở thành người mà mình căm ghét, cái người đã cướp thầy, u khỏi hắn.
Người ta nói đúng, hắn là thằng khốn nạn.
Tai hắn ù đi, và rồi hắn chẳng còn nghe thấy những lời người ta xì xào bàn tán nữa. Mãi cho đến khi cơn đau lan dần ra khắp cơ thể, hắn mới giật mình tỉnh dậy, hắn không còn là tên thầy bói tham lam năm nào nữa, câu chuyện khi ấy cũng dần trôi vào lãng quên. Chỉ có hắn mới ghim lại trong tim, như một miếng nam châm hút hắn ra khỏi sự tha hóa của cuộc đời. Ngước lên nhìn những dải nắng cuối ngày còn vương lại nơi song sắt, hắn nghĩ mình có thể đi rồi.
Trong những giây phút cuối cùng, Lương nở một nụ cười thanh thản, hắn không còn gì để nuối tiếc nữa.
***
Tên chỉ huy chầm chậm tiến vào nhà giam, lướt qua những song sắt lạnh giá và vài tên tù nhân thờ ơ trong góc buồng, rồi gã đi sâu vào bên trong, đến một nơi tối tăm và lạnh lẽo hơn hẳn. Lính gác thấy hắn đến thì vội vã đứng nghiêm, lắp bắp bẩm báo.
- Bẩm quan, nó vừa chết được một lúc.
- Mới đó mà đã chết rồi à, tiếc thật.
Gã trả lời bằng giọng ngòng ngọng đặc Tây, sau đó bình thản quay người rời khỏi, dù sao thì gã cũng là một thằng quan lớn, chẳng hơi đâu mà túc trực ở đây để ngửi máu tươi. Nhưng nhớ đến những thằng phản loạn vừa bị hành hình ở ngoài sân, gã quay lại nhìn thằng lính người An Nam đứng sau lưng mình, buông lại một câu:
- Nếu mà nó ngoan ngoãn nhận tiền rồi làm việc cho chúng tao như mày thì chẳng việc gì phải hành cho đến chết - Rồi cười hềnh hệch bước đi.
Tên lính nọ gằm mặt, liếc sang cái xác trắng bệch vẫn đang treo trên tường rồi khẽ chẹp miệng, hắn sẽ không bao giờ hy sinh bản thân mình vì một thứ không xứng đáng, giống như đất nước hắn sinh ra.
Bình luận
Chưa có bình luận