“Cám, em là Cám.” Tấm nghẹn ngào nhìn tôi. “Tấm và Cám đều là phần dư thừa của hạt gạo, chẳng thứ nào vẹn tròn. Em sẽ luôn kề cận chị, nhắc chị không được phép sảy chân nửa bước.”
Tận mãi sau này, tôi vẫn hoài tưởng ánh tà hôm ấy.
Những thức cột đều tăm tắp in bóng trên vách tường hành cung. Tôi khoác đối khâm đỏ thẫm, ung dung bước trên những ô gạch bàn cờ. Chiếc bóng của tôi lướt qua phiến cửa ngũ hành, lúc ẩn lúc hiện sau hàng cột thâm nghiêm.
Tàn ngày rỏ máu lên mũi hài tôi, điểm xuyết đôi hài vàng những đường thêu tinh xảo. Đoái trông thái dương dần khuất sau những ô ngói hoàng lưu ly, tôi như sống lại hồi ức năm nào. Chị từng bảo người rằng, bạc mộ luôn chất chứa những ẩn ức khôn nguôi. Người đáp, người không thích giao thời - thời khắc chuyển giao giữa cái cũ và cái mới, bởi cái cũ sẽ bị gột rửa sạch sẽ chẳng chừa lại cặn. So với hai người, tôi lạc quan hơn. Với tôi, bạc mộ chính là thời điểm thanh tẩy bụi trần. Phải dọn dẹp những thứ rách rưới thì mới tân trang được ngôi nhà, ấy là lẽ dĩ ngẫu. Nếu chẳng ai dám đốt cây rừng, nương rẫy có thành hình được không? Những người không đành lòng chặt cây đều sẽ chết đói, chết rét khi mùa đông tới.
Băng qua chái Tây, tôi trông thấy Thượng Dương cung. Chẳng nhớ đã bao lâu tôi chưa thăm ghé. Cung điện rực rỡ vàng son năm ấy giờ vắng vẻ, tiêu điều. Nhành xoan đào xum xuê đã bặt tăm trước cửa. Lá vàng xác xơ bên thềm, chỉ độc một người cung nhân già quét tước. Nhác thấy tôi, mụ khúm núm.
“Kính chào Thái phi.”
Tôi bảo mụ lui, thản nhiên mở cửa cung. Kẽo kẹt, tiếng động nho nhỏ khi những thanh gỗ cọ vào nhau ấy lợn cợn trong tôi những hoài niệm. Nắng tàn theo chân tôi vào gian phòng, buông lơi trên vạt áo người. Đôi mắt đong đầy sương gió trân trối nhìn tôi. Khoảng lặng loang như mực tàu thấm giấy. Tôi trông người đàn bà tàn tạ trên phượng ỷ, thấy cõi lòng hoang hoải, trơ lì.
“Cẩn chào Hoàng hậu.” Lúc này người đã là Thái hậu, song tôi vẫn quen cách gọi xưa.
Hoàng hậu thinh lặng như chiếc bóng đổ dài trên đất của người. Rũ mi, tôi cất thêm một bước, giẫm mũi hài lên chiếc bóng kia.
“Ta đến đưa tang.”
Vầng dương trút hơi tàn, sắp sửa biến tan vào màn đêm bất tận. Tôi nghe đâu đây vài thanh âm phiền toái. Vàng anh hót tiếng thê lương, quạ chiều cất giọng vui sướng. Trong hổ lốn tạp âm, tôi chẳng nghe thấy tiếng vọng của chính mình. Tâm trí tôi châu tuần qua dâu bể hồi ức, gạn bèo gạn bọt, gạn được một câu hỏi nơi đáy ao.
Dưới đó, Tấm lặng lẽ hỏi tôi:
Hà cớ gì một người đàn bà lại muốn giết chết một người đàn bà khác?
***
“Tấm con, có khách tới chơi nhà!”
Nét chữ trên giấy hơi nguệch đi, Tấm nhìn tờ giấy đang chép dở một thoáng rồi nhón chân đứng dậy. Chị phủi bụi vạt váy, chỉnh lại tóc tai rồi bước ra ngoài.
“Thưa mẹ, con đây.”
Chị bước tới cạnh người đàn bà phong tư trang nhã. Bà họ Đồng, tuổi quá băm lăm. Năm Tấm mười hai tuổi, cha đón bà về làm mẹ kế của Tấm. Để phân biệt với mẹ đẻ đã qua đời khi chị còn đỏ hỏn, Tấm gọi bà là “mẹ Đồng”. Vài năm sau, cha Tấm cũng nối gót vợ đầu xuống suối vàng, chỉ còn Tấm và mẹ Đồng nương tựa nhau mà sống.
Chẳng như nét đẹp ngọc ngà của Tấm, mẹ Đồng có một vết sẹo bỏng bên mắt trái, trông rất tợn. Mặc cho cử chỉ mẹ tao nhã ra sao, mỗi khi khách đến chơi nhà trông thấy vết sẹo kia, gương mặt họ không giấu nổi khiếp hãi. Dẫu vậy, nét cười mỉm đoan thục chưa bao giờ biến mất trên gương mặt mẹ Đồng. Đon đả mời những vị khách viễn phương ngồi lên sập, bà giới thiệu một lượt.
“Kính chào các ngài.” Tấm thưa dạ.
“Những vị khách đây vượt đường xa trắc trở đến hương vì muốn chiêm ngưỡng thước lụa con dệt.” Mẹ Đồng từ ái bảo, “Con ngồi dệt lụa khách xem.”
Hương này nổi tiếng với nghề dệt lụa. Từ nhỏ Tấm đã được các cô bác trong làng dạy nghề. Hồi mới tới đây, mẹ Đồng bảo rằng tài dệt của chị hiếm có trong dân gian. Sau này, dưới sự chỉ dạy của mẹ Đồng, ngày càng nhiều người biết đến tài dệt lụa của cô Tấm. Thi thoảng có khách ghé chơi nhà, mẹ Đồng sẽ bảo Tấm ngồi dệt trước mặt khách.
Vâng lời mẹ, Tấm ngồi xuống chiếc khung cửi lớn giữa nhà, giăng tơ dệt lụa. Mẹ Đồng rót nước, têm trầu mời khách. Hương trà ngan ngát, khách trông cô Tấm dệt lụa, ai cũng gật gù. Đôi mắt chị tĩnh lặng như gương, trong mắt chẳng còn những vị khách kia, chẳng còn nét cười nồng hậu của mẹ Đồng, chỉ còn những đường tơ. Chị tưởng tượng tấm lụa trong đầu. Cuộn chỉ, giăng tơ, đạp khung, dệt lụa, những động tác nhàm chán lặp đi lặp lại qua tay chị lại trở nên sinh động như tiên tử ca múa. Mẹ Đồng từ ái nhìn chị, tay thoăn thoắt têm trầu. Miếng trầu bày trước mặt khách, tầm mắt họ chuyển từ người con gái biêng biếc xuân thì về người đàn bà mặt sẹo.
“Kiểu têm này lạ mắt quá, trông hệt như cánh phượng!” Người đàn ông râu quai nón trầm trồ, “Ta chưa từng thấy miếng trầu nào tinh xảo đến thế!”
Gương mặt mẹ Đồng vẫn điềm đạm như thường.
“Không giấu gì các huynh, lúc tôi dạy Tấm têm trầu, bỗng dưng con bé nghĩ ra dáng trầu này, bảo là nó têm từ cánh phượng nó thấy trong mơ. Tôi trông đẹp quá bèn bảo nó dạy mình.”
Mẹ Đồng trìu mến nhìn cô con gái nết na dệt lụa, tấm tắc, “Con bé làm gì cũng khéo, hệt như tiên nữ được nhà Trời phái xuống vậy. Các huynh ngẫm mà xem, mấy ai lại mơ thấy phượng hoàng.”
Trong giây lát, động tác của Tấm ngừng trệ. Mặt hồ phẳng lặng thoáng xao động, rồi lại trở về tĩnh tại như gương. Trước ánh nhìn của những vị khách, chị từ tốn đứng dậy, tháo thước lụa ra khỏi khung cửi, trình lên cho mẹ và khách xem. Hàng lụa đều tăm tắp bày trên sập, khách viễn phương trố mắt nhìn trông.
Vị khách họ Nguyễn bình:
“Tài dệt của cô Tấm hương này hẳn phải sánh bằng Cồ Quốc Hoàng hậu của vua Đinh.”
Phép ví von chạm lên mặt nước lụa là, loang loang vệt sóng. Tấm trông nét cười khiêm cung của mẹ Đồng, ngầm hiểu những đường tơ mẹ xe cho chị.
Từ độ ấy, tiếng tăm chị vang khắp mấy hương.
***
Vốn được sinh ra cùng lúc với Tấm, nhưng mãi đến một buổi chiều tà tôi mới được đặt cho cái tên cúng cơm. Mặt trời lừ đừ nép sau rặng tre xanh trước ngõ, trông vào gian nhà nghi ngút khói hương. Mẹ Đồng thay lượt hương trên bệ thờ. Gần đó, tiếng khung cửi đều đều vang lên. Thước lụa trắng dệt xong một nửa, Tấm ngơi tay, nghe gà gáy về chuồng bèn đứng dậy.
“Con đi cời lửa, thổi cơm.”
“Không cần, ta chuẩn bị cơm cúng, rượu trà xong xuôi cả.” Mẹ Đồng vỗ tay lên sập, ngụ ý, “Còn thiếu mỗi miếng trầu con têm.”
Bàn tay mẹ vỗ lên mặt ao phẳng lặng. Từng đường nước xao động nối tiếp nhau lan khắp mặt ao. Tấm ngập ngừng một thoáng rồi tới ngồi lên sập. Mẹ Đồng đã hái sẵn những lá trầu quế tươi rói, lau đến khi mặt lá bóng bẩy thơm tho. Cau mẹ hái từ cây cạnh bờ ao, quả cau bánh tẻ vừa vặn. Mẹ lấy con dao bổ cau, khía lá trầu thành những đường răng cưa đều đặn rồi thoăn thoắt gập lại. Cánh phượng mơn mởn cơi trầu. Cài thêm nhành hoa đỏ, mẹ phết chút vôi lên trầu như phết tình lên mảnh chĩnh non xanh.
“Têm trầu cũng như điểm phấn tô son,” Mẹ Đồng trìu mến nhìn miếng trầu đẹp đẽ trên tay mình, “Phải chỉn chu, nịnh mắt thì mới tỏ rõ lòng thành đến người con muốn mời trầu.”
Thoáng ấy, Tấm như nghe thấy vó ngựa từ trăm dặm kinh đô ghé qua hương làng. Cờ trống náo động cõi lòng khấp khểnh, Tấm lặng lẽ nhìn mẹ Đồng tỉ mẩn rót nước, têm trầu, không nói một lời. Bà bày khay trầu cánh phượng trước mặt Tấm, thản nhiên bảo.
“Cơi trầu là mối lương duyên. Hôm ra mắt Kim thượng, con cứ đưa ngài miếng trầu cánh phượng này và bảo đây là trầu con têm. Thế là xong. Những sự còn lại, ta đều đã an bài cho con.”
Tấm quỳ gối trên sập, đăm đăm nhìn những miếng trầu tinh xảo. Thoáng sau, chị ngước lên, giọng nhỏ nhẹ nhưng điềm tĩnh.
“Con học vụng, không biết têm trầu. Để mẹ phiền lòng rồi ạ.”
Mẹ Đồng liếc chị, “Chỉ cần con bảo đây là trầu con têm thì ắt là do con têm.”
Sống lưng Tấm thẳng tắp như nhánh xoan đào trước ngõ. Đôi mắt chị sáng trong mà kiên định.
“Thưa mẹ, trầu này do mẹ têm.” Giọng chị khảng khái.
Bên mắt him híp sẹo bỏng khẽ nhắm lại. Mẹ Đồng thở dài, đặt trầu nước sang bên, bảo:
“Trải giấy, mài mực cho ta.”
Tấm vâng lời. Mẹ Đồng chẳng những khéo têm trầu, dệt lụa mà còn tinh thông cầm kỳ thi họa đủ ngón nghề. Đôi lúc Tấm cảm giác bà chẳng phải người thường mà là một vị thần tiên, thảng hoặc không có vết sẹo dữ tợn trên mặt.
Tấm trải giấy, mài mực hầu mẹ Đồng. Bút lông nhúng vào nghiên mực rồi phết lên tờ giấy, từng nét tiếp nối nhau, uyển chuyển thướt tha. Dáng hình người con gái mặc áo lụa dưới bầu trăng thanh, dung nhan nguyệt thẹn hoa nhường, thoạt nhìn hệt trích tiên sà xuống cõi trần. Mẹ Đồng yên lặng vẽ tranh, bên cạnh, Tấm hơi ngỡ ngàng khi mẹ điểm hạt mực lên vành mắt, hoàn thành bức vẽ giai nhân. Lắm lần chị soi mình trên làn nước, cũng biết mình đẹp, nhưng qua nét vẽ của mẹ Đồng, trông chị đẹp đến thoát tục.
Dừng bút, mẹ Đồng chặn đá mài trước mảnh giấy chưa ráo mực, giọng nhẹ bẫng.
“Đây là con, Tấm.”
Bà ngắm nhìn thiên tiên trên mặt giấy, ung dung bảo:
“Đây sẽ là con nếu con từng bước hoàn thiện chính mình. Tấm con, cuộc đời con cũng giống như những thước lụa con dệt. Con càng cẩn trọng, tính toán từ lúc xe tơ, càng chau chuốt những đường sợi thì thành phẩm càng hoàn hảo. Con càng nhuần nhuyễn quy cách dệt thì mọi thước lụa con làm ra sẽ đều tăm tắp.”
Tấm chăm chú nghe lời dạy bảo của bà. Mẹ Đồng thông hiểu mọi sự. Dường như khắp cõi đất trời, không gì bà không tỏ. Mẹ Đồng nói chẳng sai. Mỗi thước lụa hoàn mỹ mà Tấm dệt nên đều cần sự chuyên chú và tỉ mỉ tuyệt đối. Chị không được phép sai sót, bởi sai một li thì đi một dặm, mọi công sức chị bỏ vào tấm lụa sẽ hóa hư không.
Tấm còn đang nghiền ngẫm lời mẹ Đồng, bà chợt hất mảnh giấy chưa khô mực xuống thau nước gần kề. Mẹ Đồng nhặt mảnh giấy lên, giơ trước mặt Tấm. Mảnh giấy thấm nước, lớp mực chảy nhòe, dung nhan tựa thiên tiên biến dạng thành ma quỷ.
“Nhưng nếu con chệch đường, con sẽ thành thứ này.”
Thánh thót chuông chùa văng vẳng bên tai thiếu nữ. Tà dương đổ dài chiếc bóng im lìm của chị. Chiếc bóng ịn lên hình vẽ chẳng rõ hình thù trên giấy, như được cây bút của Mã Lương thổi hồn. Mẹ Đồng với lấy bát gạo trên mâm, bảo Tấm xòe tay. Những ngón tay thon gầy, đôi chỗ kéo tơ chai sạn khum khum chụm lại. Mẹ Đồng đổ bát gạo lên tay Tấm. Dòng gạo trắng ngần rầm rì tuôn xuống bàn tay, thoảng mùi đồng nội. Những hạt gạo tinh túy được chắt lọc khỏi bụi và trấu.
“Lê Thị Khiết.” Ấy là lần hiếm hoi mẹ Đồng gọi tên chữ của Tấm. “Con biết tại sao tên cúng cơm của con là Tấm không?”
Cúi nhìn vốc gạo trên tay, Tấm đáp khẽ, “Tấm… là một mảnh gạo vỡ.”
“Phải, một mảnh gạo vỡ trong lúc thu nhặt, xay sàng gạo. Tấm không phải gạo hỏng, ta vẫn thổi được cơm bằng gạo tấm. Nó chỉ là một hạt gạo không hoàn thiện.”
Đôi mắt mẹ Đồng sâu hút. Tấm chẳng rõ bà đã kinh qua những gì để có ánh mắt mênh mang như tử vi tuế nguyệt. Đôi lúc, chị không dám nhìn thẳng bà, sợ sẽ rơi khỏi vùng trời thênh thang ấy.
“Con người chẳng ai toàn thiện, cũng chính bởi vậy, người ta càng phải cố gắng trở nên kiện toàn. Thành công, con sẽ trở thành hạt gạo tròn trịa, tinh túy. Thất bại, thì con sẽ thành thứ này.” Mẹ Đồng chỉ vào chiếc bóng của Tấm, giọng khô như cây cối mùa đông. “Con sẽ thành Cám. Nếu Tấm là thứ gạo không tròn trịa thì Cám là đồ bỏ đi, chỉ xứng cho lợn ăn. Con không thể trở thành Cám.”
Tấm lặng lẽ nhìn chiếc bóng trời đổ nghiêng nghiêng trên tấm giấy loang lổ mực, không đáp. Mẹ Đồng giữ đôi vai mảnh dẻ của chị, tha thiết:
“Tấm con, thế gian ai cũng chuộng những thứ không tỳ vết, như ngọc sáng, như lụa đẹp, như Thần Phật, Bồ Tát. Số mệnh con là trở thành một thước lụa toàn bích, một viên ngọc nguyên khôi, một vị Bồ Tát sống của chúng nhân. Con có làm được không?”
Tấm trân trối nhìn mẹ. Chẳng một người nào trong cái hương nhỏ này mơ tưởng về viễn cảnh xa xôi ấy. Nhưng mẹ Đồng không như họ. Bà là con chim xanh cao quý sà xuống tổ vàng anh, ban cho vàng anh một tấm áo lụa đào. Tấm không hiểu mẹ Đồng trông thấy gì ở chị, cũng chẳng rõ từ đâu mà bà có thể thốt lên những lời hoang đường nhường ấy. Chị chỉ biết, mẹ Đồng không chỉ lo liệu ma chay cho cha mẹ chị mà còn dốc lòng chỉ dạy chị mọi thứ, nuôi dạy chị nên người. Như thước lụa được tỉ mỉ thêu dệt, nếu không có mẹ Đồng, danh tiếng cô Tấm đã chẳng lan khắp mười phương. Đến tuổi cập kê, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó là chuyện thường tình. Mẹ Đồng không chọn cho chị một tấm chồng môn đăng hộ đối trong hương. Bà đặt chị lên miếng trầu têm cánh phượng, kê sẵn con đường cho chị bước qua cánh cổng vàng son, đưa chị một bước lên tiên, từ vàng anh thành phượng hoàng.
Nhưng Tấm chẳng trông thấy con đường ấy. Trước mắt chị mịt mờ khói sương. Chị chỉ thấy vầng trăng từ đáy giếng, không thấy cả khoảng trời mênh mang.
“Tại sao lại là con?” Tấm mơ hồ hỏi.
Mẹ Đồng vuốt ve làn tóc đen nhánh, suôn mềm của chị, ôn tồn nói:
“Con chính là giấc mộng hoàng lương của ta.”
Nhìn thẳng vết sẹo bỏng trên gương mặt mẹ Đồng, Tấm bỗng thấu hiểu nguyên cớ giản đơn ấy. Mẹ Đồng đã chẳng thể thành gạo nữa, chỉ Tấm với nguyên vẹn dung nhan mới có cơ may đạt đến cái xuất thần của bốn chữ “công, dung, ngôn, hạnh” đó thôi.
Mộng hoàng lương… Tấm nhìn cơi trầu têm cánh phượng mỹ lệ trên bàn, bỗng thấy trớ trêu thay cho phận hẩm của mẹ. Tiên tử thì phải đẹp không tì vết, dù mẹ Đồng tài hoa đến đâu, chỉ bởi dung mạo, rốt cuộc bà cũng chẳng thể siêu thoát khỏi phàm thai xác tục.
Ôm vốc gạo vào khuê phòng, Tấm thừ người bên cửa, lặng nhìn chiếc bóng im lìm trên đất. Nhìn đến khi trời xâm xẩm, chị chợt thả tay. Dòng gạo rơi trên chiếc bóng, tanh tách mưa sa. Lệ đổ chiều tà, những giọt ngọc châu lã chã thấm vào chiếc bóng.
“Cám, em là Cám.” Tấm nghẹn ngào nhìn tôi. “Tấm và Cám đều là phần dư thừa của hạt gạo, chẳng thứ nào vẹn tròn. Em sẽ luôn kề cận chị, nhắc chị không được phép sảy chân nửa bước.”
Âm điệu thanh thanh, mềm mại tuôn khỏi bờ môi ẩm ướt của chị. Em, tiếng gọi thân thương xiết bao. Từ độ ấy, tôi có một cái tên. Cái bóng được định danh, trở thành một sinh vật tên là Cám, cả đời bám vào bước chân của Tấm.
***
Sau buổi chuyện trò kia, trừ những khi dệt vải, Tấm dốc lòng học nghệ từ mẹ Đồng. Dân gian chuộng đồng dao, quý nhân gảy sắt cầm. Dân gian ưa bói toán, quý nhân đọc thiên văn. Dân gian dệt lụa, quý nhân vận lụa. Lụa hương này bấy lâu vẫn được dâng lên kinh, vua quý nghề, đôi lần đã cử người đến hương vời thợ dệt vào cung. Mẹ Đồng từ chối khéo, chẳng qua vì đã an bài cho Tấm con đường tốt hơn.
Hai tháng trước hội xuân, mẹ Đồng dạy Tấm cung quy. Lễ nghi cũng như dệt lụa, sai một li đi một dặm. Người cũng như lụa, dệt mới thành hình. Tấm học một hiểu mười, mấy chốc đã thuần thục lễ thức, chẳng còn đâu bóng dáng dân nữ thôn quê. Dần dà, Tấm biết những vị khách mẹ mời đến nhà nếu không phải quý nhân đức cao vọng trọng thì cũng là thương buôn truyền tống tiếng thơm. Thậm chí, trong số họ còn có cả nội quan bên cạnh Kim thượng.
Cuối tháng Ba, vị khách họ Nguyễn lại ghé qua nhà. Lần này, mẹ Đồng gặp riêng người nọ. Chiều tà, tiễn khách ra ngoài ngõ, mẹ Đồng buông khẽ tiếng than.
“Đến mùa dâu rồi nhỉ?”
Dâu tằm chín rực khắp hương, trải đường phong gấm.
Sáng ấy, mẹ Đồng tỉ mỉ chải chuốt cho Tấm. Suối tóc đen bện khăn lụa, má dặm phấn hồng, môi bôi trầu đỏ. Khoác lên Tấm thước lụa đào, mẹ Đồng hòa ái bảo chị.
“Con nhất định sẽ là cô thôn nữ hái dâu đẹp nhất thế gian. Thần Phật đã chọn con. Chỉ con mới xứng với đôi hài vàng của Kim thượng.”
Soi bóng mình trong nước, Tấm biết chẳng Thần Phật nào chọn chị, chỉ có mẹ Đồng là “Thần Phật” duy nhất mà thôi. Mẹ Đồng đã luôn chăm chỉ xe tơ và thêu cho chị một tấm lụa đào, chờ chị bay tới cửu trùng.
Tấm lụa tinh xảo ấy đã được thêu dệt thế này: vào cái thuở xuân hinh lan tràn khắp cõi, đoàn xa giá của vua qua chùa quán cầu tự, cờ trống tưng bừng. Tới hương nọ, Kim thượng trông thấy một cô thôn nữ hái dâu đứng nép trong bụi cỏ lan, cất tiếng hát. Tiếng ca thánh thót như vàng anh đánh động Kim thượng. Ngài cho vời thôn nữ đến, nàng thẹn không gặp. Vua hỏi nguyên do. Thôn nữ bẽn lẽn bảo rằng nàng đánh mất chiếc hài trẩy hội, ngượng ngùng không dám diện kiến long nhan. Vua bèn sai người nội quan bên mình lội sông kiếm hài, rốt cuộc nhặt được chiếc hài thôn nữ đánh rơi. Mãi đến khi ấy, thôn nữ mới bước ra.
Bùn không giấu nổi hương sen, bụi cỏ lan cũng chẳng che khuất được dung nhan chim sa cá lặn. Người nội quan bên cạnh rỉ tai vua về điềm thụy. Kim thượng tán thưởng cốt cách thôn nữ, sai người đem lọng võng đến rước nàng vào cung, phong làm Phu nhân. Lồng son khuất bóng má đào. Vàng anh bay vào tay áo, cận kề long nhan.
Từ độ ấy, Tấm có thêm một cái tên khác bên cạnh tên thật. Cũng từ độ ấy, chẳng còn ai ngoài tôi gọi chị là “Tấm”.
(Đây chỉ là một nửa nội dung, bản này không đính kèm chú thích, mời bạn mua sách để đọc trọn bộ).
Bình luận
Chưa có bình luận