Lại bắt chước mấy gã nhưng tuồng không đọc được mấy quyển sách, đi viết mấy cái tuồng “trai anh hùng, gái thiền quyên” ư? Vừa nghĩ thôi đã thấy ớn như cả năm ròng ngày ba bữa cứ bị bắt ăn thịt mỡ. Mỗ thích làm cho rốt ráo đáo để, viết để đời kia.
Mỗ đây họ Tô, người huyện Bồng Sơn phủ Quy Nhơn trước nay vốn lệ vào dinh Quảng Nam, sinh nhằm năm Canh Tuất cuối triều Vĩnh Khánh. Do trước cũng gọi là có duyên với chuyện rồng mây, thi Chính Đồ đỗ Hương cống nên được bổ làm Huấn đạo. Bởi chức vụ, cộng thêm thứ bậc trong nhà nên người trong huyện hay gọi là thầy Huấn Năm. Sống đến nay đã quá tam tuần, ngoảnh mắt trông nhác thấy gần về xế.
Chao ôi buổi vận can qua nên chiêng nhà phải chịu. Mấy năm nay ở xứ Đàng Trong, việc chính sự tại dinh chính luôn bê trễ, binh lửa nổi liên miên, đà dần về bĩ. Thế mà cái thú nghe ca kĩ vốn trung hưng từ cái dạo Vinh Lộc đại phu còn ở đời thì vẫn được ưa chuộng rất nhiều. Bao giờ cũng thế, khi phận đời đã quá nhiều éo le trái khoáy thì người ta lại đeo đuổi những thứ giá trị tinh thần. Vì thỏa nỗi lòng ru? Thỏa uất ức ru?
Mỗ đây có người bạn nối khố ngụ ở huyện trên, từ nhỏ đã theo lão nhưng Trà vốn nức tiếng khắp mười thôn, học bộ làm đào. Nghe bảo mỗi tháng cũng được vài quan tiền bỏ túi. So ra kiếp “xướng ca vô loài” vẫn có chỗ hơn cái kẻ “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm” là mỗ đây.
Nghĩ cũng lạ! Tai nghe trống chiến trống chầu, xếp ba miếng kẹo lộn đầu lộn đuôi. Cứ tưởng sau cái buổi huy hoàng thời vở Tây Vương Mẫu Hiến Bàn Đào còn được diễn điện rồng, thì nghề hát lại trở về với cửa đình sân miếu dân dã, hết ca rã đám. Ai ngờ nhờ tay ông tiên tổ của nghề, thế là kiếp con hát ở Đàng Trong lại được nâng lên hẳn mấy bậc. Quả đúng cho câu: Tính mấy qua trời? Vận thời khó đoán.
Mỗ thích nghe hát, nhưng lòng lại tham hiểu cái phận đời của mỗi vai kép, vai đào trong những lớp tuồng ấy hơn nhiều. Người ta mê coi luông tuồng đâu phải chỉ vì xấp bổn tuồng diễn hoài diễn mãi kia đâu! Cái thú vui chính yếu là coi cái tài nghệ của đám đào kép khi lên đài ấy! Có đôi khi mỗ thấy bà con coi tuồng mà ghét lây đứa kép đang sắm vai. Ghét ra mặt vì cái vai nịnh nó đóng sao mà thật quá, chướng mắt quá. Ước chi chém cha bà thằng nịnh.
Bạn kim lan của mỗ có đôi dạo được đi xa. Có khi nó ra tít Phú Xuân để diễn, nhưng không phải trong dinh chánh. Bởi chốn đấy nào đâu phải nơi đám đào kép dân dã “bộ chẳng lơi, hát chẳng tới” được dự vào đâu. Nó đã thế, mỗ đây cũng thời chẳng khá hơn bao lăm. Danh Hương cống nghe thấy oai đấy, kệnh cạng đấy; nhưng cứ như các quan thầy hay đùa thì nhà Nho nước ta lấy đầu heo làm sự nghiệp, chứ kinh bang tế thế cứ để mặc đấy đã, rượu vào liên thiên sau.
Cũng phải, một miếng thịt làng bằng cả sàng thịt chợ mà.
Nhẩm tay đếm tháng ngày, tâm can bắt đầu rạo rực khi biết mùa Kỳ Yên lại sắp đến bên thềm ngõ. Năm nay nghe đâu ở phủ đây có mấy gánh nhận hát giàn hát soái, hứa hẹn diễn đủ các tuồng tích. Từ Phong Thần đến Đông Châu, Chinh Đông rồi Tam Hạ Nam Đường,… Thằng cha nhưng tuồng đều hô hào có diễn hết. Luông tuồng!
Mỗ nghe thế nên khoái chí lắm. Bởi sống ở nông thôn thì người ta làm sao có nhiều dịp quên bớt buồn chán. Cả năm dăm bữa hát. Vả chăng từ vua chúa cho đến bình dân nào có ai là không mê tuồng, mê hát bội. Nghĩ cách đây chẳng bao lăm, đương chúa xót con, cấm người dân tổ chức ca hát đủ trăm ngày rồi lại cho lính đi vào tít dinh Trấn Biên để bắt con hát về mua vui. Chúa đã thế, mỗ đây chỉ là kẻ hèn chốn quê.
Chén trà không nhơi, buông lơi ống điếu, mỗ vơ vội cái áo xống cùng đôi guốc mộc, cắp nón sang gánh bạn hỏi han.
Trời vừa quá Ngọ, con ác đà ngoảnh cổ về Tây. Nắng chang chang oi muốn bể đầu. Hai bên đường rặt cỏ dại cháy vàng, lá đã hoen dính đầy bụi đất. Vết chân voi với ngựa đi ngang qua đan chồng chéo vào nhau, làm mặt đường rỗ như da mặt đứa con nít bị đậu mùa. Dạo này ngoài dinh chánh có nhiễu sự, lính dinh được điều về năm lần bảy lượt, cứ cách độ châu tuần thì lại có lệnh trưng ra đấy. Cũng không rõ là có sự tình chi đây.
Đường vào thị xa hút, đi mãi giữa cái nắng chói mà vẫn chưa tới nơi. Mỗ nhìn sắc trời hanh oi, định bụng dừng chân bên hàng nước gọi ấm trà Tàu cùng mấy mảnh trầu têm sẵn. Trời hè được ngồi chõng trúc hớp miếng trà xanh thanh thanh, rít mấy ngụm yên diệp là mát lòng mát dạ phải biết.
Mụ Hai Mít chủ hàng thấy mỗ đến, bèn đon đả tíu tít mời mọc: “Cậu huấn ngồi uống bát trà. Nay tính đi đâu mà canh lúc nắng chang chang dang ra đó?”
“Nay mùng mấy rồi mà mụ còn hỏi? Mụ ngồi đây từ ngày này qua tháng nọ mà không nghe bá tánh nói vụ hát bội niên nay à?” Mỗ ngồi phệt xuống chõng tre, chân co chân buông thõng cho thoải mái. Thấy cái quạt bồ bị Hai Mít vứt chỏng chơ ở trên bàn nước, người mình lại mướt mồ hôi nên mỗ cầm lấy dùng, quạt xoành xoạch.
“Ế cậu nói tui mới nhớ à nghe! Bữa nghe nẫu kêu phong thanh năm nay nhưng Trà thầu được mẻ hát đám, còn bầu Hai Quảng cũng tự tụ gánh hát trường đó cậu.”
Hát trường? Mỗ nghe mà thầm mỉa mai trong bụng. Chao ôi cái thói đời! Ham thích trò gióng trống khua chiêng, liểng xà liểng xiểng vẫn cứ mạnh miệng tự vuốt râu khen mình giỏi. Thằng Quảng lác mới học được tí nghề còm đã dám đòi ăn to, mở trường hát để ăn tiền giàn với tiền ghế? Khéo lên hát chưa xong câu bạch là đã nghe no tiếng chửi. Tay nào chịu đứng cầm chầu cho giàn nhà nó chắc điếc không sợ súng.
Thấy cặp mắt hí đã vẩn đục của bà hàng nước nhìn mình, mỗ mới phẩy tay đáp: “Sao cũng xong! Phải tui, tui cứ nhè gánh nhưng Trà mà coi thôi, nẫu ra sao tui mặc kệ! Nghe trống chầu cái đầu láng mướt mà, giắt túi nhiều đồng vậy chớ thấy kép Tám Hồng xổ câu Nam là tui móc ra hết à. Bộ bà không nhớ ổng hay hát câu: ‘Trít trát như ruồi sa mật. Say sưa tợ khỉ ăn đom’ còn gì.”
“Cậu huấn làm quan, hưởng lộc vua ban chúa thưởng nên cho tiền con hát mát tay vậy cũng chẳng sao. Chớ nhà tui đây, có đồng ra đồng vô là đã may rồi, ai mà dám cho hết đám con hát! Lại còn buổi cơm cao gạo kém! Chết mất thôi, mới đó mà lại sắp tới đợt trưng thu!”
Mỗ nghe xong chỉ cười. Gia sự các nhà, mỗ có rành rọt cái chi đâu mà bàn luận. Ngửa đầu uống cạn bát trà mát, mỗ lại nói dáo lá thêm vài câu rồi mò mớ xu lẻ lận trong lưng quần ra đếm, bỏ riêng hai đồng kẽm ăn ba quăng vào cơi trầu. Mụ trông thế bèn lấy túi ra định thối lẻ nhưng lại thấy cái lắc đầu nơi mỗ. Lúc sắp đi, mỗ mới nhắc nhỏ bên tai:
“Chồng bà tứ đổ tường bấy lăm đó! Bà chắt chiu làm chi cho mệt!”
Nhà có người chắt mót thì có người tiêu pha phung phí, thế là quanh đi quẩn lại tiền càng lúc càng vơi. Cờ bạc là bác thằng bần, đời thuở xưa nay mỗ chưa thấy ai phú vinh nhờ con đường đó hết. Nghĩ cũng tội cho mụ ấy, cả ngày loay hoay quanh bên gánh co mo thúng để nuôi đủ sáu con một chồng, chứ làm nông thì hoa tức được mấy lăm? Thân tá điền so với kiếp tò vò còn kém, hoa tức cả vụ khấu trước trừ sau đủ các thứ tô, thuế thì cả nhà chỉ còn dư lại có nửa cân gạo trắng, đủ nấu cháo loãng cầm hơi gọi là.
Biết đời khổ thế ấy, nhưng dân đen thấp cổ bé họng nên tiếng lầm bầm không vọng tới được ngai cao.
Lúc xuống đến thị, trời đã nghiêng bóng xế. Mỗ đến chỗ gánh, chỉ thấy đứa nhỏ chạy việc thường hay đóng “Hoa Di nhị tướng” hát giáo đầu đang ngồi tra cờ đuôi nheo vào cán gỗ. Bên trong vắng hoe không có ai.
“Quớ Tí! Cô đào Sáu gánh mày đâu?”
“Dạ lạy cậu huấn! Cô Sáu theo nẫu đi dựng bàn cúng đình với xây chầu rồi, xóm bển á! Cậu vô nhà ngồi chơi chờ cô con xíu, chắc cổ gần về rồi á cậu.”
“Cô mày đi lâu chưa? Nay tao tới tính hỏi cô mày bữa đó hát bổn tuồng gì, đặng tao còn ghé cầm chầu cho cô mày nữa chớ. Im im không nói tao biết đâu mà lường! Còn cô mày bắt tao đổ đường như năm ngoái thì tao xin kiếu!”
“Được á cậu! Cậu cầm chầu là ta nói chớ coi đã con mắt! Nghe đâu cô Sáu chưa quyết tuồng nào, tại cũng đang suy nghĩ dữ lắm á cậu.”
“Cô mày có tật hay lưỡng lự! Gặp tao là cứ nhè Cẩm Hoa Đình ra mà ca thôi, bảo đảm ca xong đến tối còn được lãnh trợ cấp thêm do thâu hoạch lời quá. Đợt trước lão huyện nghe mê nghe mệt, ngồi trệt trên ghế không muốn về nữa kia. Mà nghĩ cũng sợ cô mày bị bắt ra dinh chúa lắm, có thiệt chắc tao rụng rời.”
Trước đó cũng thành sự đã rồi nên bây giờ trong giới con hát ai cũng sợ cảnh đang yên lành bị bắt ra dinh chánh hầu chúa. Gần vua chúa như gần cọp dữ, ai biết về sau vận mình ra làm sao.
“Vậy cậu vào trong ngồi chơi canh nhà dùm cho con nhen cậu. Để con chạy tuốt qua nhà võ ca bên bển nói cô Sáu cho. Chứ khéo xây chầu xong bên đình nẫu mời ăn cỗ là cô con về trễ luôn đó. Cậu cứ ngồi tự nhiên nhen!”
Nó nói xong bèn co giò chạy tuốt, thoáng chốc đã mất dạng.
Ngồi uống được ba bốn chén trà thì thằng nhỏ mới báo cô đào Sáu nhà nó về. Đây đúng là điều làm mỗ thấy vui vẻ vì ai đâu mà dám về ban đêm ban hôm ở mấy cái buổi trị an bất ổn này kia chứ.
Chắc do đến đình nên nay bạn kim lan của mỗ ăn vận nghiêm chỉnh ra trò. Kiếp phường hát ở cái xứ này quả thực cởi mở hơn so với trước, nhưng thâm căn cố đế có ai lại muốn bỏ tiền ra cưới con hát tiện mọn về làm bà cả? Được làm bà hai, dẫu vào nhà chồng bằng cửa sau đi nữa cũng đã là may phúc lắm. Chưa kể ở cái tuổi ban thời của bạn mỗ, lúc nào cũng bị coi như gái lỡ thì. Thấy cũng tréo ngoe lắm! Lúc mới mười hai mười ba, hợp chuyện mai mối cưới xin thì sự nghiệp chưa đâu vào đâu, lời tuồng dài mười chắc nhớ đặng ba bốn, còn lại xin phép hát cương cho qua lối. Hát không hay thì không được thưởng nhiều, có mấy bận đói xanh ruột nên tay không cầm nổi cán thương để múa. Đến khi thuộc tuồng rành bộ, tiền lận lưng đã hòm hòm thì bẵng cái phát hiện mình quá nhị tuần rồi, người bằng vai phải lứa đều sớm bề chồng con nheo nhóc. Đào già như trứng cá rụng sân, đến bần dân cũng đâu thèm ghé mắt. Thế là coi như xuân thì đã quá.
Cô đào Sáu bày trà bánh ra mời, thời hỏi mỗ: “Bận nay anh huấn huyện ta rảnh rang nhỉ? Không lên huyện à?”
Mỗ nghe vậy bèn thả ống điếu xuống bàn, cười trêu: “Ừ! Tại cái thân tui tham bữa giỗ thành ra lỗ bữa cày. Nghe đình sắp có hội nên đến đây hỏi cô Sáu thử. Ai nẫu cũng kêu cầm chầu là cái ngu bực nhứt đó! Đâu như tui, làm thân con vạc mà chẳng biết lo. Bán đồng cho cò, phải đi ăn đêm đâu cô Sáu hè?”
“Anh huấn này nói hay! Nẫu không biết lại nghĩ tui làm tội làm tình chi anh nữa. Măng non nấu cá ngạnh nguồn, đến đây ta phải bán buồn mua vui. Anh không muốn đi thì ai mà ép uổng anh đặng?”
Nghe đến đây, mỗ không nhịn được nữa bèn cười phì thành tiếng. Biết nhau bao năm, cái lối trêu qua chọc lại vẫn không có gì thay đổi. Nghĩ cũng vui! Ở đời chẳng được bao lăm, nếu được tri âm tất phải quý vậy.
Hai người bọn mỗ lại bàn đến chuyện cúng đình. Bạn mỗ bảo năm nay các nhà tranh nhau đặt chầu sớm, nhưng sức của gánh có hạn nên đành phải chối từ bớt để người ta còn kịp thuê nơi khác. Người ít tiền thuê giàn trong ngày, chứ ai nhà “no cơm ấm cật” đều muốn nghe luông tuồng độ hai ba bữa mới chịu hạ giàn giải tán. Tuy chủ nhà không tiếc trả phí án phạn đến bạc chín bạc mười, nhưng gánh muốn ăn được mấy đồng tiền đó cũng chẳng dễ. Tuồng cũ diễn dễ thật nhưng đời thuở ai đâu nghe hoài mà không biết chán? Thế là phải để lão nhưng tuồng ngồi biên diễn bổn mới cho con hát tập giáp tuồng. Ngặt nỗi có tích mới dịch ra tuồng, nào đâu phải dễ.
Đời con hát hiếm ai cam chịu nghề mình làng nhàng xếp sau người khác. Có nổi trội mới mong được nâng lên thành đào chánh, kép chánh. Đóng vai chánh tuy hát nhiều hơn, cật lực hơn nhưng tiền thưởng cũng cao. Về sau dù muốn rửa tay chậu vàng, từ giã cửa Lê viên thì của để dành vẫn đủ sống. “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền” cả thôi.
Lâu nay đi coi hát nhiều, nên mỗ cũng có ham thích với việc ngồi soạn bổn tuồng cho con hát diễn. Thế nhưng nghĩ hay ho làm chầy bửa, mỗ vẫn chưa tìm ra được một thứ đề tài hay hớm để đặt bút viết. Lại bắt chước mấy gã nhưng tuồng không đọc được mấy quyển sách, đi viết mấy cái tuồng “trai anh hùng, gái thiền quyên” ư? Vừa nghĩ thôi đã thấy ớn như cả năm ròng ngày ba bữa cứ bị bắt ăn thịt mỡ. Mỗ thích làm cho rốt ráo đáo để, viết để đời kia. Ngặt nỗi cái đấy thì khó. Chẳng lẽ lại viết về thời cuộc bây giờ? Muốn thế thì phải nặn óc tìm ra cái vỏ trá ngụy để lính không bắt bớ, quy mình tội mưu toan phản nghịch. Chừng nào người đời còn chưa nhận ra được sự phồn hoa này đã sắp đến hồi kết, mình có trầy trật cũng thành sức dã tràng công cốc.
Mình là dân đen, lại ở xa cửa khuyết nên tiếng nhỏ không vẳng được đến đó. Ai mà chẳng mong nước non mạnh giàu, yên ổn, can qua bặt tiếng…
Bạn kim lan của mỗ bảo nghĩ gì cứ chép cả ra giấy, lắm chỗ chỉ cần cái ý đại khái là được rồi. Nhược bằng muốn thêm thắt hẵng sau lại bàn kĩ. Viết lời tuồng phải hỏi qua ý của đứa hát mới được xem là thấu đáo; phải để cái lòng người soạn đồng điệu với cái tài hoa của người diễn. Lời hát quá xoàng thì người nghe không thấy thú; viết công phu cho lắm con hát lại khó thuộc. Mà đã không thuộc làu rồi, tất phải cắn răng hát cương cho qua lời. Thế là coi như bể tuồng hết. Đó mới thấy cái chuyện này đâu có dễ chi cho cam.
Mỗ suy nghĩ liên tục mấy ngày, cơm quên ăn, ngủ quên giấc. Mỗ cứ trăn trở mãi, rằng mình có nên viết về hiện thực không, về những thứ mình đang ôm trong bụng hay không… Đời sẽ chẳng vì mỗ là một anh huấn sống nơi làng quê mà cho rằng điều mỗ đang ấp ủ là đúng. Anh huấn này chưa đặt chân đi ra chánh dinh bao giờ, cũng chưa bao giờ chứng kiến được phồn hoa ở nơi đó. Nhưng sự phồn vinh dựa trên những hà hiếp, bóc lột thì đấy là nên chăng? Năm nào đình làng cũng cúng Kỳ Yên, nhưng mỗ thấy ngoài đồng cỏ cháy nhiều lắm, mà người bị bắt bớ ra chánh dinh cũng càng lúc càng nhiều.
Hẳn mỗ nên tìm người hỏi chuyện ở chánh dinh dạo gần đây xem sao.
(Đây chỉ là một nửa nội dung, bản này không đính kèm chú thích, mời bạn mua sách để đọc trọn bộ).
Bình luận
Chưa có bình luận