Gà vừa gáy, Huỳnh Trung đã thức dậy thay quần áo rồi đi ra ngoài. Tôi cũng thức dậy theo, nhưng thấy trời còn tối nên tôi không đi ra ngoài mà tiếp tục nằm ở trong phòng. Đợi đến khi trời sáng hẳn, tôi mới thay đồ rồi đi ra ngoài.
Người ăn kẻ ở trong nhà ai cũng bận rộn lo chuyện cúng kiếng, dọn mâm cúng lên bàn thờ của má Lớn. Lúc tôi đi ngang qua phòng của má Hai Thắm thì nghe tiếng gõ mõ tụng kinh, nên cũng không dám làm phiền. Nghe người làm trong nhà nói từ hồi về nhà này, má Hai Thắm ăn chay chứ không ăn mặn, còn lập bàn thờ Phật ở trong phòng, cứ mùng một ngày rằm là sẽ ở trong phòng tụng kinh niệm Phật không ra ngoài. Nhất là những ngày trước ngày giỗ của má Lớn, bầu không khí trong nhà sẽ trở nên yên lặng hơn.
Tôi đi lên nhà trên, nhìn tấm di ảnh được đặt trên bàn thờ. Đến tận ngày hôm nay, tôi mới chú ý đến tấm di ảnh được đặt trên bàn thờ, người má chồng thật sự của tôi. Cậu Hai Nhân giống ông Hội đồng như đúc, từ đôi mắt, cái mũi, cái miệng không lệch đi đâu được, còn chồng tôi thì có nhiều nét giống với má Lớn hơn, nhất là đôi mắt. So với má Hai Thắm, má Lớn sắc sảo hơn, toát lên phong thái của tiểu thơ đài cát nhà quyền quý được sống trong nhung lụa từ nhỏ, nhưng không biết vì sao tôi cứ có cảm giác đôi mắt của bà có gì đó buồn buồn.
Chừng giữa trưa, Huỳnh Trung mới vào nhà. Lúc này tôi đang loay hoay dọn mâm cúng cùng mọi người thì anh bước đến bên cạnh nắm lấy tay tôi kéo đi trước sự ngỡ ngàng của tất cả mọi người.
Tôi không hất tay anh ra, khó hiểu hỏi: "Mình muốn đưa em đi đâu?"
"Tôi muốn em đến gặp má của tôi."
Nghe anh nói lòng tôi tự nhiên chùng xuống, tôi không nói gì nữa, nói đúng hơn là tôi không biết phải nói gì. Huỳnh Trung dẫn tôi ra khu đất ở sau vườn, nơi này còn có thêm mấy ngôi mộ lớn nhỏ khác, theo như tôi biết thì đây là nơi chôn cất của người nhà họ Huỳnh. Có lẽ một ngày nào đó, khi tôi mất đi, tôi cũng sẽ được chôn cất ở đây.
Tôi nhìn thấy ở xa xa, trước mộ của má Lớn có một người đàn bà đang quỳ khóc thảm thương. Tôi nhìn bóng lưng, đoán chừng đó là một người đàn bà đã đứng tuổi, tóc hoa râm, nhưng ăn bận cũng sang trọng. Tiếng khóc ai oán vang vọng cả một góc trời, thê lương đến tột cùng khiến ai nghe thấy cũng xót xa.
"Lành ơi, em chết oan chết ức quá Lành ơi."
"Út Lành, em sống khôn chết thiêng, em phù hộ cho thằng Ba sớm ngày tìm ra chứng cớ để trừng trị ả đờn bà độc ác kia, đòi lại công bằng cho em nha Lành ơi."
Thấy người đàn bà kia càng khóc càng thê thảm, mà Huỳnh Trung lại đứng bất động ở đây nên tôi càng khó hiểu: "Ai đang khóc trước mộ má vậy mình?"
"Là dì Hai Tốt, chị ruột của má tôi. Dì thương má lung lắm. Hồi má mới mất, là một tay dì chăm sóc cho tôi, rồi hông chịu đi lấy chồng, nên giờ vẫn cứ lủi thủi một mình như vậy đó."
Tôi đứng yên nghe anh kể một hồi, thấy hình như anh thương dì Hai Tốt dữ lắm. Nhà ngoại của anh là người gốc ở Trà Ôn, ngoài dì Hai Tốt thì anh còn có một người cậu nữa. Bây giờ sự sản của nhà họ đều do một tay người cậu đó trông coi, sau khi ông bà ngoại của anh qua đời, đã chia cho dì Hai Tốt một số tiền, nên dì đã dọn đến Gò Công, mua một căn nhà với mấy công ruộng để thu huê lợi mà sống hết phần đời còn lại của mình ở đây.
Câu chuyện thời trẻ của dì Hai Tốt kể ra thì đúng là khiến người ta kinh hồn bạt vía. Hồi dì Hai Tốt đương độ mười bảy, mười tám tuổi, dì đẹp dữ lắm, mình hạc xương mai, mày tầm mắt phụng, ngó còn đẹp hơn cả má Lớn nữa. Cho đến một ngày người trong làng đồn ầm cả lên chuyện dì Hai Tốt có nghén, sau đó sanh được một đứa con trai, nhưng người trong làng đều nói đứa trẻ ấy vừa sinh ra đã chết yểu. Thời bây giờ tân tiến rồi còn khó mà chấp nhận chuyện đờn bà con gái không chồng mà chửa, chứ đừng nói đến cái thời hơn hai mươi năm về trước. Nếu không phải nhà ngoại của Huỳnh Trung có quyền có thế, thì chắc dì Hai Tốt đã bị mấy lời sỉ nhục của bà con làng xóm dìm chết rồi.
Tôi cùng Huỳnh Trung đi đến mộ má Lớn, lúc này anh mới lo lắng hỏi: "Sao dì lại ra đây giữa trưa như vậy? Không tốt cho sức khỏe của dì đâu."
Dì Hai Tốt quay đầu nhìn lại, cười hiền: "Dì không sao. Năm nào vào ngày này mà dì hổng ra thăm mộ của má con." Rồi dì quay sang nhìn tôi: "Con là vợ thằng Ba phải hông?"
"Dạ phải."
Dì nắm lấy tay tôi: "Hồi đám cưới hai đứa dì bịnh quá, nên hông đến được. Dì áy náy lung lắm. Vợ thằng Ba, con đừng có giận dì nghen con."
Tôi lắc đầu: "Hổng sao đâu dì. Dì bịnh mà con trách dì thì coi sao đặng?"
"Thằng Ba lấy được con đúng là nó có phước dữ lắm đa."
Dì Hai Tốt hỏi han tôi vài câu rồi đi đến bên cạnh Huỳnh Trung, hỏi: "Mà từ hồi con về đây, con thiệt chưa tra ra chuyện chi hết hở con?"
Huỳnh Trung lắc đầu, sau đó từ từ đi đến trước mộ, giọng buồn buồn: "Cái chết của má con, tuy mơ hồ, không có chứng cớ, nhưng bằng linh cảm và lý trí, con phần nào cũng đoán được."
"Cha bây hồ đồ quá. Hổng biết có phải bị người ta cho ăn bùa mê thuốc lú chi hông, chớ sao chuyện rành rành ra trước mắt mà mấy chục năm rồi cha bây hổng có đả động* chi hết?"
(*) đụng chạm đến, nói đến
"Con hông để bà ta nhởn nhơ hoài đâu. Dầu có khó khăn cỡ nào con cũng phải tìm ra chứng cớ, con hông tin bà ta có thể một tay che trời." Dứt lời, Huỳnh Trung lại nói tiếp: "Hồi hôm người đờn bà đó lại thấy má con, bà ta la hét đau đớn như thể có ai đó đang bóp cổ mình."
Tự nhiên tôi thấy lạnh người. Tôi nghe ra trong giọng nói của anh có vài phần hả hê. Chẳng lẽ đây gọi là "có tật giật mình"? Đêm qua, tôi nghe thấy tiếng la hét thất thanh từ phòng của má Hai Thắm, nhưng lúc tôi định ra ngoài thì đã bị Huỳnh Trung ngăn lại. Tôi vẫn nhớ bầu không khí của đêm hôm đó. Bên ngoài đèn đuốc sáng trưng, mọi người tất bật ra ngoài xem tình hình, chỉ có tôi và Huỳnh Trung vẫn như cũ ở trong phòng. Tôi biết anh rất hận má Hai Thắm, nhưng tôi không ngờ lòng hận thù trong anh lại lớn đến như vậy.
Nói chuyện với nhau thêm vài câu, dì Hai Tốt mới rời đi. Huỳnh Trung chạm tay vào tấm ảnh trên bia mộ, mắt anh buồn so, mặt buồn rười rượi. Lúc tôi định an ủi anh ấy, thì nghe thấy tiếng bước chân ở phía sau nên quay lại nhìn, Huỳnh Trung nhìn thấy má Hai Thắm đang đi đến thì mặt liền biến sắc: "Bà ra đây mần chi?"
Má Hai Thắm hình như đã quen với thái độ này của Huỳnh Trung, nên bà cười hiền: "Hôm nay là ngày giỗ của má con, má đem trái cây ra cúng cho má con."
Anh ta nhìn chằm chằm dĩa trái cây trên tay bà, giận dữ nói: "Bà không phải má của tôi. Sau này đừng có xưng má con với tôi chi hết. Bà đi đi."
Hai mắt anh ta đỏ ngầu hiện rõ tia máu vì giận dữ, trên trán nổi đầy gân xanh. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy hình tượng "cậu Ba dữ dằn" trong lời đồn đại. Ngày thường Huỳnh Trung đối xử với tôi rất tốt, rất dịu dàng, nhưng ngay lúc này anh ta giống như biến thành một con người khác vậy. Ánh mắt giết người như muốn ăn tươi nuốt sống này, khiến sống lưng tôi lạnh toát.
Người đàn ông này rốt cuộc đã trải qua những gì vậy?
Má Hai Thắm đem dĩa trái cây đặt xuống trước phần mộ, rồi quay qua nhìn Huỳnh Trung: "Từ lâu dì đã xem con như là con của mình. Dì cũng mong má con ở trên trời sẽ bỏ qua những lỗi lầm ngày xưa."
Tôi nhìn qua, thấy hai tay Huỳnh Trung siết chặt lại, trong đôi mắt chất chứa hận thù: "Việc của bà đang mần, là việc tốt. Nhưng mà người chết có bỏ qua được hay không, thì chưa biết được."
"Ba Trung, dì mong con hiểu đó là chuyện không ai mong muốn. Suốt bao năm qua, dì luôn muốn bù đắp cho con. Dì không mong con tiếp tục sống trong hận thù. Oan oan tương báo, bao giờ mới dứt." Má Hai Thắm nói bằng giọng buồn buồn.
"Tôi mong bà đừng có nhắc đến má tôi. Hãy để cho má tôi được an nghỉ."
"Dì xin lỗi." Má Hai Thắm nói bằng giọng run run.
Tôi nhìn bà ấy rất lâu, trong lòng vô cùng rối bời. Tôi biết người đàn bà trước mặt này không đơn giản, nhưng để khẳng định bà ấy là người tốt hay người xấu thì tôi vẫn còn rất mơ hồ. Tôi từng đi dò hỏi, nhưng người trong nhà không ai dám nhắc đến chuyện này.
Huỳnh Trung chỉ tay vào cái cây mọc lên ở gần mộ của má Lớn, trên cây còn có một bông hoa vừa nở rộ, lạnh nhạt nói: "Bà nhìn đi. Đây là cây trúc đào. Hồi còn sống má tôi thích lắm."
"Thì ra là vậy. Hèn chi dì thấy con trồng ở bên cạnh mộ của má con."
Tôi thấy ánh mắt Huỳnh Trung thoáng chốc liền thay đổi, ánh mắt này tôi chưa nhìn thấy bao giờ. Anh chạm nhẹ vào cánh hoa đang nở rộ kia, cười nói: "Đúng là hoa nở đẹp thật, nhưng nó là loài cây có độc. Có thể dùng làm thuốc, nhưng cũng có thể dùng để giết người."
Trên mặt má Hai Thắm lộ ra vẻ sợ hãi: "Cây… cây độc như vầy, con trồng trong nhà mần chi?"
"Má tôi thích loài hoa này. Vả lại tôi thấy hoa của nó đẹp, nên tính trồng chơi thôi. Đó giờ dì có nghe câu Lấy độc trị độc chưa? Tôi thấy ông bà mình nói đúng lắm, dì thấy có đúng hông dì?"
Mặt má Hai Thắm xanh mét: "Dì… dì thấy trong người hơi mệt. Để dì vào nhà nghỉ một lát."
"Dạ, vậy để con dìu má vô nhà rồi biểu bầy trẻ đi mời thầy lang tới coi bịnh cho má."
Nói xong, tôi bước lên định đỡ bà ấy thì bị bà ấy xua tay ngăn lại: "Thôi khỏi. Chắc là má đứng ngoài nắng lâu quá nên xây xẩm mặt mày xíu thôi. Con ở đây với thằng Ba đi. Má tự đi vô được."
Tôi nhìn thấy hai người họ như vậy, đứng ở giữa cũng không biết làm sao, nhưng dù gì thì tôi cũng là phận dâu con trong nhà, cũng nên cư xử cho phải phép. Muôn đời nay tôi nghe người ta nói câu mẹ ghẻ con chồng chứ có được thấy bao giờ đâu, hôm nay được tận mắt chứng kiến đúng là đáng sợ mà. Chỉ là bình thường không phải là mẹ ghẻ hà khắc với con chồng hay sao? Nhưng cái tình cảnh tôi vừa thấy, sao lại hoàn toàn trái ngược thế này?
Đợi đến khi bóng dáng má Hai Thắm hoàn toàn biến mất khỏi tầm mắt, tôi mới quay qua nói với người đàn ông bên cạnh mình: "Em thấy anh hình như hơi quá đáng với má Thắm rồi đó. Dầu sao thì bà ấy cũng là vợ sau của cha, là bậc trưởng thượng**."
(**) người lớn, ở trên mình.
Huỳnh Trung quay sang nhìn tôi, mặt anh lúc này đã quay lại dáng vẻ như thường ngày: "Mới nhiêu đó hông xi nhê chi với bà ta đâu. Tôi mần như vậy là đã nể mặt bà ta lắm rồi."
Tôi nửa tin nửa ngờ, hỏi: "Hổng lẽ thiệt sự là má Hai Thắm đã hại chết má Lớn hở anh?"
Hỏi xong, tôi liền hối hận. Thấy anh im lặng quá lâu nên tôi quay qua nhìn, ai ngờ thấy cả người Huỳnh Trung đang run lên, nước mắt chậm rãi chảy xuống dọc theo gò má. Mãi đến một lúc lâu sau, anh mới lên tiếng: "Bà ta chính là người đã gây ra cái chết cho má tôi. Bà ta muốn hại tôi lâu rồi. Nếu hông phải tôi phước lớn mạng lớn, nếu hông phải má tôi ở trên trời phù hộ tôi, thì giờ này tôi đã nằm sâu dưới ba tấc đất rồi."
"Nếu anh đã chắc chắn như vậy, sao hông đi nói chuyện này cho cha biết?"
"Cha thương bà ta lung lắm. Tôi lại hông có đủ chứng cớ để buộc tội bà ta, thì có nói thế nào cha cũng hông tin đâu. Chớ nếu có thì sao tôi để bà ta ở yên trong cái nhà này, ngồi vào vị trí của má tôi bao năm nay được?"
Tôi không nói gì nữa, Huỳnh Trung đột nhiên nắm lấy tay tôi, sắc mặt và giọng điệu đều thay đổi: "Má, đây là vợ của con, Tú Bình."
Lòng tôi có hơi xúc động, hai mắt cảm thấy có hơi cay cay. Huỳnh Trung đứng trước mộ của má Lớn thật lâu, anh nghĩ điều gì đó mà mặt mày buồn so, còn cái thở dài thườn thượt của anh nghe xót xa, não nề lắm.
Tôi đi hỏi thằng Lượm, hồi đầu nó không dám nói, nhưng tôi gặng hỏi quá nên cuối cùng cũng khai hết. Thì ra hồi đó người ông Hội đồng thương không phải má Lớn, mà là má Hai Thắm, nhưng vì rào cản giai cấp nên hai người không thể đến được với nhau. Ông Hội đồng vì chữ hiếu nên nghe theo lời cha má cưới má Lớn - người môn đăng hộ đối với nhà mình về làm vợ rồi sanh được cậu Hai Nhân, chồng tôi và cô Tư Quyên. Sau này, cả cha má và má Lớn đều mất thì ông Hội đồng mới cưới má Hai Thắm về làm vợ sau, rồi sanh ra cậu Năm Phước với cô Út Trinh. Chỉ là cái chết của má Lớn không đơn giản, nghe nói là vì biết chuyện ông Hội đồng vẫn còn lén lút qua lại với "người tình", vợ chồng xào xáo nên má Lớn mới uất hận treo cổ tự tử. Mà người đầu tiên phát hiện ra thi thể của má Lớn lại chính là Huỳnh Trung.
Nghe đến đây, tôi mới bàng hoàng: "Tôi… tôi tưởng má Lớn chết là do bịnh tật. Ai mà có dè…" Thấy thằng Lượm trầm tư, tôi mới hỏi tiếp: "Mà nếu má Lớn tự tử, thì sao chồng tôi cứ khăng khăng là má Hai Thắm giết chết má Lớn như vậy?"
Thằng Lượm nhìn quanh một lúc, rồi mới lên tiếng: "Đúng là nếu chỉ có như vậy thì thiệt sự không có chuyện chi để nói, nhưng lúc cậu Ba phát hiện ra thi thể của bà Lớn, trong tay còn nắm chặt một tấm hình của một người đờn bà."
"Là má Hai Thắm!" Tôi thất kinh.
"Dạ phải."
"Chắc ảnh buồn lung lắm."
"Sau khi bà Lớn chết, cậu Ba bịnh nằm liệt giường, đến lúc tỉnh dậy thì cậu không nói chuyện được nữa, gần một năm cậu sống như người câm vậy. Thầy thuốc cũng nói là không chữa được, tại cái này là tâm bệnh. Rồi tự nhiên một ngày cậu nói chuyện được bình thường, không ai biết tại sao hết á mợ."
Tôi vẫn chưa hết bàng hoàng trước chuyện mình vừa nghe được. Trong lúc nhất thời không thể đứng đứng vững, thằng Lượm thấy vậy thì vội vàng đưa tay ra đỡ nhưng tôi xua tay.
Thằng Lượm thấy tôi bần thần như vậy thì mếu máo nói: "Chuyện này con nghe cha con kể, chớ lúc đó con còn nhỏ quá có biết cái chi đâu. Con thấy mợ thương cậu như vầy nên con mới dám nói, chớ ông mà biết con nói chuyện này cho mợ nghe chắc ông đánh con chết luôn."
Đầu óc tôi lúc này cứ ong hết lên. Tôi cứ nghĩ cuộc đời mình đã đủ khổ sở rồi, không ngờ lại còn có người thê thảm hơn cả tôi. Chúng tôi cùng trải qua nỗi đau mất má, Huỳnh Trung suýt chút nữa thì thành người câm, còn tôi thì trở thành người mất trí, không nhớ những chuyện xảy ra trước năm bảy tuổi nữa. Nhưng có lẽ tôi vẫn đỡ hơn một chút khi không phải sống trong thù hận suốt ngần ấy năm, bởi vì má tôi mất vì tai nạn, bà không bị ai hại chết, còn cái chết của má Lớn thì vẫn còn quá nhiều điều ẩn khuất. Người hại chết má Lớn có thể là má Hai Thắm hay người nào đó khác, hoặc cũng có thể chẳng có ai là hung thủ cả, mà má Lớn thật sự tự sát thì sao? Không ai có thể chắc chắn được.
Có lẽ chính vì thế mà điều này đã trở thành cơn ác mộng giày vò Huỳnh Trung trong suốt ngần ấy năm trời.
Bình luận
Chưa có bình luận