Sau khi vợ chồng tôi làm lành, thì vợ chồng ăn ở với nhau còn êm ấm hơn trước. Tôi biết mình đã thương anh rồi, nhưng ngặt vẫn còn chuyện đang giấu giếm nên cái tình ấy cứ khiến lòng tôi bất an. Nhiều lần tôi muốn tỏ thiệt với anh, nhưng rồi lại dụ dự không dám nói. Tôi thẹn vì mối duyên oan nghiệt của tôi với Hoàng Đăng, chứ tôi không thẹn đạo làm vợ. Bởi lẽ từ hồi tôi về đây làm dâu, tôi vẫn luôn giữa tiết hạnh với chồng, trọn đạo làm dâu, nên không có lý do gì tôi phải thẹn vì lẽ đó hết.
Tôi phải nói chuyện này làm sao đây? Chẳng lẽ lại nói với anh, tôi và chồng của em gái anh từng thương nhau hay sao? Huống chi tôi và người nọ không phải chỉ thương nhau sơ sài rồi thôi, mà còn từng tính gá nghĩa vợ chồng* với nhau. Tôi thiệt bối rối hết sức, không biết đường nào phải, nẻo nào quấy đặng mà đi cho đúng. Ngoài mặt thì tôi vẫn dửng dưng như không, nhưng trong lòng lúc nào cũng thấy rối bời.
(*) gá nghĩa vợ chồng: kết hôn
Tôi mới vừa đi lên nhà trên, thì chị Rạ từ ngoài cổng chạy lại: “Mợ Ba, có người gửi thơ cho mợ.”
Tôi cầm lấy lá thơ, thấy bên trên có đề tên của cha thì cất vào túi, rồi quay qua nói với chị Rạ: “Sớm mơi chị dậy sớm xúc gạo đem đi xay giùm tôi nghen, sẵn tiện mua giùm tôi hai bó bông huệ với trái cây để về chưng lên bàn thờ má Lớn.”
“Dạ, con biết rồi. Mà mợ biểu con xúc gạo đi xay làm chi, bộ mợ tính sớm mơi làm gì hả?”
Tôi cười: “Cậu Ba thích ăn bánh xèo, nên ngày mai tôi tính đổ cho cậu ăn.”
“Chèn ơi, mợ thương cậu Ba dữ ha.”
Tôi bị chị Rạ ghẹo thì mắc cỡ: “Chị cứ ghẹo tôi hoài.”
“Con đâu có dám ghẹo mợ. Con là đang khen mợ đó chớ. Từ hồi cưới mợ về, cậu Ba được ăn toàn món ngon không à, còn con với mấy đứa khác trong nhà cũng được ăn ké nữa.”
“Tôi chỉ biết nấu vài món thôi à, hổng có giỏi giang như chị nói đâu.”
“Mợ là con nhà giàu, làm được vậy là giỏi lắm rồi. Còn hơn cô Tư với mợ Năm, suốt ngày chỉ biết ăn hiếp kẻ ăn người ở trong nhà không à.”
Tôi nghiêm mặt: “Chị đừng nói như vậy, không có nên đâu.”
Chị Rạ thấy tôi có vẻ không vừa ý nên chị ấy không dám nói nữa: “Dạ, con xin lỗi mợ. Con biết con là phận tôi tớ thì hổng nên nói chủ như vậy, nhưng mà sự thiệt nó là như vậy, con đâu có dám nói thêm nói bớt chi đâu.”
Tôi biết chị Rạ là người thẳng tính, nhưng nếu cứ nói chuyện không biết kiêng dè như thế này, thì sớm muộn cũng sẽ gặp họa: “Mỗi người một tánh. Cô Tư có hơi khó tính, nhưng cổ chỉ là khẩu xà tâm Phật thôi. Chị mần công cho nhà này cũng lâu rồi, chị phải hiểu tánh tình cổ như thế nào chứ? Còn mợ Năm, mợ ấy mới về đây chưa lâu, nên mọi người chưa hiểu tánh mợ ấy.”
“Dạ.”
Đúng là cô Tư Quyên nói năng có hơi hỗn ẩu, nhưng tâm tính cô ấy vốn không ác. Còn mợ Tuyết Mai, thì tôi vẫn chưa hiểu rõ được. Có lúc tôi thấy mợ ấy rất hiểu lễ nghĩa, có lúc tôi lại thấy mợ ấy độc đoán, đa nghi, khinh nghèo trọng giàu. Không biết rốt cuộc mợ ấy còn đang che giấu điều gì nữa?
Sau khi ăn cơm xong thì tôi cùng Huỳnh Trung đi dạo trong vườn hóng mát rồi mới trở lại vào phòng. Lúc tôi tính đi thay đồ chuẩn bị đi ngủ, mới nhớ ra lá thơ tôi để quên trong túi. Tôi lấy lá thơ từ trong túi áo ra coi. Trong thơ, cha tôi nói ông xin hưu trí sớm, không làm Cai tổng nữa. Tôi biết cha tôi chán ngán chuyện này đã bảy, tám năm nay rồi, ngày trước ông làm cái chức này vì muốn con đường làm ăn sau này sẽ thuận lợi hơn, trở thành chỗ dựa cho tôi. Bây giờ công việc làm ăn đã yên ổn, mà tôi cũng có được một tấm chồng tốt nên cha tôi không còn tha thiết gì cái chốn thị phi ấy nữa.
Một bàn tay đặt nhẹ lên vai tôi: “Em đang nghĩ gì mà nãy giờ cứ như người mất hồn vậy?”
Tôi nắm lấy tay anh, tay còn lại thì cầm lá thơ đưa cho anh: “Hồi sớm mơi em nhận được thơ của cha, mà sáng giờ em quên không giở ra coi. Cha cho em hay là giờ cha không làm Cai tổng nữa.”
Huỳnh Trung cầm lấy lá thơ từ tay tôi, nhưng anh không mở ra coi liền mà ngồi xuống bên cạnh tôi, lo lắng hỏi: “Sao vậy? Bộ cha làm mích lòng quan trên hay sao?”
Tôi lắc đầu: “Dạ không. Cha nói tại cha chán ngán cái chốn thị phi ấy rồi, nên thôi không làm nữa. Song, cha thấy dân mình còn nghèo, còn khổ, mà muốn hết nghèo, hết khổ, thì trước hết là phải mở mang đầu óc, khai thông dân trí nên cha quyết lấy sức riêng của mình đặng giúp ích cho bà con nhà nghèo trong làng.”
Huỳnh Trung ngồi xuống bên cạnh tôi, giở lá thơ ra coi rồi nói: “Tôi thấy cha tính vậy coi cũng được. Cha trọng tuổi rồi, hưu trí sớm cho khỏe. Giờ mở lớp dạy chữ, thì trong nhà có tiếng học trò đọc bài, con nít cười giỡn, cha cũng đỡ buồn.”
“Anh nói phải lắm, nhưng em cứ thấy lo lo làm sao đó.”
“Em cứ khéo lo. Cha mần như vậy, thì trong trí cha đã tính xong hết rồi. Mình lo làm chi cho thất công.”
Tôi nghe rồi để đó, trong lòng cứ buồn hoài không hết được. Tôi buồn vì mình là phận gái, chữ hiếu chưa tròn đã phải đi lấy chồng, bỏ bê cha già ở nhà quạnh quẽ. Dầu cha không trách tôi, nhưng tôi tự thấy mình chưa tròn đạo làm con.
Thấy tôi buồn, anh nắm lấy tay tôi: “Hổm rày lu bu nhiều chuyện quá nên tôi hổng đưa em đi được, chừng vài bữa nữa xong hết công chuyện rồi, tôi đưa em về Vĩnh Long thăm cha nghen.”
Tôi nghe mà ứa nước mắt, quay qua ngó anh rồi nói bông đùa rằng: “Anh nói thiệt hay nói chơi vậy?”
“Tôi nói thiệt, chớ nói chơi với em làm chi.”
Nghe anh nói vậy, thì sự buồn phiền trong lòng tôi cũng bắt đầu tan biến. Phận làm con, được ở bên cạnh chăm sóc, báo hiếu cho cha mẹ lúc về già là chuyện hiển nhiên, lại là điều xa xỉ đối với những cô gái lấy chồng xa nhà. Tuy cha má chồng tôi không cấm cản chuyện tôi về Vĩnh Long thăm cha, nhưng tôi cũng không dám làm liều. Dù cha má chồng có đối xử tốt với tôi đến đâu, thì tôi vẫn chỉ là con dâu, có một số chuyện không thể quá phận được. Những lúc như thế này, tôi mong sao có thể sớm ngày tìm thấy Khải An, để nó ở bên cạnh chăm sóc, hủ hỉ với cha thay phần của tôi.
Ngày hôm sau, tôi xuống bếp trổ tài làm bánh xèo, cha má chồng tôi với Huỳnh Trung ai cũng tấm tắc khen ngon. Dì Bảy mà biết chuyện này chắc là vui lắm, tại bánh xèo là món tủ của dì ấy. Hồi đó, lúc dì Bảy dạy tôi làm, lần nào tôi cũng làm hư hết, thành ra có một thời gian dì ấy cứ bắt tôi học cho bằng được, làm chừng nào ngon thì thôi.
Lối đầu giờ chiều, mặt trời đã ngả bóng, gió thổi hiu hiu mát mẻ, tôi thấy Huỳnh Trung đang cặm cụi coi lại mớ sổ sách của xưởng gỗ mà cậu Năm Phước vừa mới đưa qua nên tôi không dám làm phiền mà đi ra ngoài, vừa hay nhìn thấy cô Út Trinh đang ngồi trong vườn.
Cô em chồng này của tôi tuy là gái tân thời, nhưng tánh tình cô kín đáo, chứ không dạn dĩ như cô Tư Quyên.
Tôi từ từ đi lại gần, chắc là cô Út Trinh nghe thấy tiếng bước chân nên cô ngẩng đầu nhìn lên, thấy tôi thì cô chúm chím cười: “Chị Ba, chị lại đây ngồi rồi mình nói chuyện chơi.”
Tôi lại ngồi kế bên cô Út Trinh, rồi nói: “Hổm rày chị thấy mặt mày em buồn xo, cứ ngồi suy nghĩ vẩn vơ hoài, em có sự buồn gì hay sao?”
“Em có buồn chuyện chi đâu!” Cô Út Trinh lắc đầu.
“Em có buồn phiền gì thì em cứ nói cho chị nghe, biết đâu chị lại giúp được em thì sao?”
“Em thấy đời này bất công với phụ nữ, bất công với người nghèo nên em chán thôi.”
“Ở đời, hễ làm lành thì gặp lành, làm dữ thì gặp dữ. Ông trời cũng công bình lắm em à. Người nào ăn ở ác nhơn, thì phải gặp hoạ. Còn mình cứ ăn ở hiền lương, thì dầu có gặp họa cũng sẽ có quý nhơn che chở, phò hộ thôi.”
Nhớ đến lời nhờ vả của má Hai Thắm, tôi dụ dự hồi lâu mới lên tiếng: “Út Trinh nè, chị hỏi em cái này, nếu em hổng muốn trả lời thì thôi nghen.”
“Bộ nhà mình có chuyện gì hay sao mà chị Ba phải rào trước đón sau hoài vậy?”
“Em có ưng thầy kí Nghiệp hay không?”
Cô Út Trinh nghe vậy thì cô mắc cỡ cúi đầu, song giọng cô nghe có vẻ gì đó rất lạ: “Em… em… cũng không biết nữa. Nhưng phận làm con, cha má đặt đâu, thì em ngồi đó.”
“Đành là vậy. Nhưng mà thiệt lòng em có ưng không?”
Cô Út Trinh không nhìn tôi, nhưng tôi nhìn ra trong mắt cô có gì đó buồn buồn: “Chuyện nhân duyên là do trời định mà, chị suy nghĩ nhiều làm chi cho mệt trí. Với lại chị Ba nói cứ như mơi mốt em đi lấy chồng, là em đi luôn không bằng.”
“Cũng phải. Nếu có lấy chồng, thì em cũng ở đây, chớ có đi đâu. Cha má định đoạt hết rồi. Em mà lấy thầy kí, thì mai mốt thầy cũng về ở nhà mình, rồi hàng ngày tới nhà máy xay gạo làm thầy kí. Chỉ ngại chuyện nhà mình đòi bắt rể, không biết thầy có chịu ưng hay không?”
“Em đâu có biết đâu. Nói thiệt, em đi lấy chồng không đành là tại chuyện nhà mình dạo này đương chộn rộn quá.”
“Nếu em ưng thầy kí Nghiệp, thì chị sẽ nói ý của em cho cha má hay. Nói chứ tiếng là nhà mình bắt rể, chứ hằng ngày thì thầy vẫn đi làm việc quan như thường, không sợ sẽ mang tiếng ăn bám nhà vợ.”
Cô Út Trinh không trả lời, song tôi ngó thái độ của cô thì thấy có gì đó là lạ. Tôi đang tính dò hỏi thêm mấy câu, thì nghe tiếng người đưa thơ từ ngoài cổng vọng vào: “Có ai không? Nhà có thơ!”
Nhỏ Nụ đang tưới cây gần đó nên nó lăng xăng chạy ra cổng lấy thơ, tôi thấy vậy thì lên tiếng hỏi: “Nụ, thơ của ai đó em?”
“Dạ, thơ của cậu Ba.” Nhỏ Nụ chạy lại đưa bức thơ cho tôi.
Tôi cầm lấy bức thơ từ tay nhỏ Nụ, ngó thấy tên đề trên lá thơ là họ tên của đốc tờ Vĩnh Xuân thì đem cất vô túi áo, rồi quay qua nói với nhỏ Nụ: “Để lát tôi vô tôi đưa thơ này cho cậu Ba. Em đi mần công chuyện tiếp đi.”
Nhỏ Nụ chào tôi với cô Út Trinh rồi đi lại tưới mấy bụi môn cha chồng tôi trồng ở trước nhà, tôi ngó dáng vẻ của nó cứ lăng xăng mà thấy mắc cười. Chừng quay qua, thấy mặt cô Út Trinh coi bộ mắc cỡ thì tôi lấy làm lạ, sau đó tôi mới sanh nghi. Cô Út Trinh ngồi ở bên cạnh chắc là đã ngó thấy tên đề trên bức thơ, nhưng hình như cô đang giả bộ coi như không thấy.
“Em có biết cậu Vĩnh Xuân là ai hay không?”
“Em biết. Ảnh là con của bác Hương sư Khanh, hồi đó ở sát nhà mình chứ đâu. Anh Ba chơi thân với ảnh lắm. Hồi em còn học ở trên Sài Gòn, anh Ba có dắt em đi gặp ảnh mấy lần.”
Cô Út Trinh nói tới đó thì dừng không chịu nói nữa, coi mòi** đang có chuyện gì muốn giấu giếm.
(**) coi mòi: có vẻ như
Bình luận
Chưa có bình luận