Sau khi tỏ thiệt hết lòng mình, vợ chồng tôi ăn ở với nhau càng thêm ấm êm, lòng càng mến, nghĩa càng nồng, tình càng mặn.
Vết phỏng trên người của Huỳnh Trung đã dần lành lại, chỉ là vết thương ở lưng quá nặng, đốc tờ Vĩnh Xuân nói dù có chữa trị bằng các loại thuốc tốt nhất thì sau này vẫn sẽ để lại sẹo, nhưng thôi, trong cái rủi còn có cái may, còn mạng là còn tất cả.
Với cơ ngơi bề thế của nhà họ Huỳnh thì một tiệm gạo bị cháy cũng không phải vấn đề lớn, nhưng ít nhiều gì cũng có chút ảnh hưởng. Sau khi Huỳnh Trung tỉnh lại, nói rõ người cứu mình là thằng Lượm thì cha chồng tôi đã lên báo cho sở cẩm thả thằng Lượm ra. Thằng Lượm không phải người gây ra đám cháy, thì người có hiềm nghi lớn nhất chính là ông Ba Văn. Nếu không phải ông ta có liên quan, thì tại sao lại nói xạo để đổ hết tội lỗi lên người thằng Lượm?
Con trai suýt nữa chết cháy, cha chồng tôi giận lắm, quyết không để yên chuyện này nên sai người đi lùng sục khắp nơi, còn treo thưởng cho người nào nhìn thấy sự việc ngày hôm đó. Quả nhiên không lâu sau đó, có người đến cho hay là đã nhìn thấy ông Ba Văn chạy ra từ trong tiệm gạo, chỉ vài phút sau thì tiệm gạo xảy ra hỏa hoạn nên ông Ba Văn bị bắt giam vào khám. Lúc đầu ông ta kiên quyết không chịu thừa nhận, nhưng sau đó đã khai rằng, do lỡ tay làm đổ đèn dầu, rồi đám cháy lan ra quá nhanh, ông ta sợ người ta biết là mình gây ra hỏa hoạn nên mới chạy trốn, rồi sau đó đổ tội cho thằng Lượm. Má Hai Thắm thấy em mình làm chuyện trái quấy như vậy, thì cũng không còn mặt mũi nào để cầu xin nên mặc cho ông Ba Văn van nài cỡ nào bà cũng không chịu nói đỡ câu nào với ông Hội đồng.
Tuy là vết thương của Huỳnh Trung đã lành miệng, nhưng vì lần này bị thương không nhẹ nên cứ cách hai, ba ngày là Vĩnh Xuân lại ghé qua nhà kiếm tra vết thương cho anh.
Vĩnh Xuân cất đồ vào hộp thuốc: “Cái mạng của toa thiệt lớn! Ông bà mình nói người gặp đại nạn không chết, ắt có hậu phúc đó đa.”
“Lần này, moa cảm ơn toa nhiều lắm!”
“Trời đất! Giữa tụi mình mà toa còn nói chuyện ơn nghĩa làm chi?”
“Mà nè, vết thương trên đầu toa…”
Huỳnh Trung nghe vậy thì hơi khựng lại, anh né tránh ánh mắt của tôi rồi gật đầu với Vĩnh Xuân: “Ừ, đúng như toa nghĩ đó.”
Tôi nhíu mày, khó hiểu hỏi: “Hai người làm gì mà cứ nói chuyện lấp lửng kỳ cục vậy?”
Huỳnh Trung dụ dự không chịu nói làm tôi càng thêm nóng ruột.
“Thôi, toa cứ nói hết thảy cho cô Bình nghe đi.”
Huỳnh Trung thở dài, nhìn trước ngó sau rồi nói: “Bữa đó tôi đi công chuyện ở trên Sài Gòn có mua cho em một đôi bông tai, chừng về được nửa đường thì tôi sực nhớ để quên đôi bông ở trong tiệm nên quay lại lấy. Lúc mở cửa bước vô, tôi nghe có tiếng người lục lọi nên rọi đèn đi qua coi thử, không dè bị người ta đánh bất tỉnh. Lúc tôi tỉnh dậy, thì thấy tiệm gạo đã bị cháy rồi.”
Lúc đầu tôi chỉ nghĩ vết thương trên đầu Huỳnh Trung là do lúc ở trong đám cháy bị thứ gì đó rớt trúng, nhưng bây giờ nghe anh nói vậy thì chuyện này đúng là không đơn giản.
“Lẽ nào là ăn trộm?”
Huỳnh Trung lắc đầu: “Tôi thấy không giống lắm.”
Chuyện này đúng là kỳ lạ. Huỳnh Trung bị người ta đánh bất tỉnh rồi nhốt ở trong tiệm, lúc đầu tôi còn nghi ngờ người phóng hỏa có ý muốn giết người. Đến khi biết được ông Ba Văn là người gây ra đám cháy, thì tôi thấy nghi ngờ này của mình không hợp lý lắm. Đúng là ông Ba Văn và Huỳnh Trung đều không ưa nhau, nhưng cũng không phải xích mích đến mức phải kẻ sống, người chết. Huống hồ ông Ba Văn chỉ có cái tật cờ bạc, rượu chè, chứ cũng không phải kiểu người có gan làm ra mấy chuyện giết người này, nên tám, chín phần chỉ là trùng hợp, vậy người đánh ngất Huỳnh Trung là ai, mục đích của họ là gì?
Sau khi ông Ba Văn bị bắt, thì chuyện cửa tiệm bị cháy cũng coi như xong. Huỳnh Trung không nói chuyện bị người ta đánh lén cho ông Hội đồng biết, mà muốn âm thầm điều tra xem rốt cuộc kẻ đó là ai. Tôi thấy anh tính như vậy cũng không sai, nên không cản. Chỉ là tôi thấy địch ở trong tối, ta ở ngoài sáng, biết đường đâu mà lần.
Dạo này trời nóng nực, tôi ngủ không được nên tính ra ngoài đi dạo một vòng. Lúc đi ngang qua nhà trên, thấy hai vợ chồng cậu Hai Nhân đều ngồi ở đó.
“Mình! Khuya rồi sao mình hổng vô buồng ngủ đi mà ngồi ở đây?”
Cậu Hai Nhân lắc đầu: “Mình cứ ngủ trước đi. Tôi ngủ hổng được.”
“Mình hổng vô ngủ, làm sao em ngủ được?”
“Tôi nghĩ lại, tôi thấy hồi đó mình bậy quá. Tôi mần chuyện quấy với mình, âu cũng tại tôi hận cái đời này bạc bẽo quá, lúc nhục chí lại bị đám bạn rủ rê lao vô chơi bời phung phí, rồi tôi còn hất hủi mình, tôi làm buồn lòng cha má bên nhà, làm cha tôi sầu não sanh bịnh. Tôi ăn năn cái lỗi cũ của mình lung lắm. Mình bỏ qua cho tôi chuyện cũ nghen mình?”
Mợ Hai Hòa cười hiền: “Chuyện cũ là chuyện gì? Em đâu có nhớ nữa, tự nhiên mình hỏi em lại làm chi?”
“Mình làm cái…”
Tôi sợ bị phát hiện đang nghe lén nên hoảng hồn lấy tay che miệng của Huỳnh Trung lại. Anh nhìn tôi chằm chằm, hai hàng chân mày nhíu lại tỏ vẻ không hiểu chuyện gì.
Huỳnh Trung ghé sát vào tai tôi, hỏi nhỏ: “Mình làm cái gì mà đêm hôm khuya khoắt đi rình mò chuyện của vợ chồng anh chị Hai vậy?”
“Rình mò cái gì? Em ngủ hổng được, nên ra ngoài hóng gió, vô tình nghe được anh chị Hai nói chuyện chớ có cố tình đâu mà anh nói em rình mò anh chị Hai.”
Tôi nắm lấy tay Huỳnh Trung kéo đi: “Mà hồi nãy mình có nghe được gì không?”
Huỳnh Trung gật đầu.
“Thấy anh chị Hai hiệp ý, em mừng ghê nơi. Thiệt, chị Hai khổ vì ảnh quá rồi.” Nói xong, tôi quay qua nhìn Huỳnh Trung: “Mà nè, mình còn chưa khỏe hẳn nữa, sao tự nhiên đi ra đây làm chi?”
Huỳnh Trung bị tôi hỏi thì chột dạ nên nói lảng sang chuyện khác: “Thôi, khuya lơ khuya lắc rồi. Tôi với mình cũng vô ngủ đi, ngày mai còn phải dậy sớm nữa.”
Trong thời gian Huỳnh Trung ở nhà chữa trị vết thương, chuyện trong nhà máy xay gạo tạm thời do cậu Hai Nhân trông coi. Ông Hội đồng thấy con trai lớn đã chịu tu chí làm ăn, thì cũng nguôi ngoai phần nào chuyện của Huỳnh Trung. Lại nói đến chuyện người đàn ông đã đánh Huỳnh Trung bất tỉnh ở tiệm gạo, người này giống như đã bị thiêu thành tro vào ngày hôm đó vậy, kiếm như thế nào cũng kiếm không ra. Sau khi thằng Lượm được thả ra, Huỳnh Trung đã sai nó đi kiểm tra lại mọi thứ một lần nữa. Sau khi xác nhận mọi thứ trong tiệm đã bị cháy rụi hoàn toàn, không còn để lại chút manh mối nào mới cho người xây lại cửa tiệm mới trên nền đất cũ.
“Chị Ba, em có chuyện này muốn nói với chị.”
Tôi nhìn cậu Năm Phước bằng ánh mắt khó hiểu, nhưng vẫn giữ phép lịch sự trả lời: “Có chuyện gì thì chú cứ nói.”
“Em tính mượn anh chị Ba một số tiền.”
“Chú tính mượn tiền để làm chi?” Tôi hỏi lại.
Cậu Năm Phước sau một hồi suy nghĩ mới nói: “Chị cũng thấy vợ em rồi đó. Cái tánh của cổ em ngó chắc là khó ở đây được lâu, nên em tính ít bữa nữa xin cha má cho phép vợ chồng em dọn lên Sài Gòn mướn phố ở. Em muốn mở một phòng tranh ở trên đó, ngặt là vẫn còn thiếu một ít.”
Tôi hiểu được ý của cậu Năm Phước. Mợ Tuyết Mai về đây làm dâu chưa lâu, mà đã không ít lần làm phật lòng cha má chồng, cứ năm ba bữa là lại bị má chồng gọi lên góp ý thành ra từ lâu trong lòng mợ ấy đã sinh ra bất mãn. Với cái tính kiểu đó thì hai vợ chồng họ nên dọn ra ở riêng, lâu lâu mới về nhà một lần thì may ra mới không xảy ra xích mích giữa má chồng và nàng dâu.
“Tôi sẽ nói với chồng tôi chuyện này, nhưng tôi nghĩ chú vẫn nên tự mình nói với ảnh thì tốt hơn. Chú cứ yên tâm, tôi tin là ảnh sẽ ủng hộ chú thôi.”
“Em cảm ơn chị.”
Đúng lúc này, mợ Tuyết Mai xách vali bước ra. Cậu Năm Phước vừa nhìn thấy thì nụ cười trên môi đã biến mất: “Mình, mình đi đâu mà đi hoài vậy?”
Mợ Tuyết Mai khệ nệ khiêng vali đi lại ghế ngồi xuống, cậu Năm Phước ngó vợ mà lắc đầu: “Hết Mỹ Tho, Sa Đéc, rồi giờ lên Sài Gòn, sao mình hổng ở nhà phụ má với chị Hai, chị Ba?”
“Tôi thì biết cái gì đâu mà làm. Chuyện lớn nhỏ trong nhà, má hổng làm, thì chị Hai với chị Ba làm, ở nhà hổng có chuyện gì làm, hết đứng lên, ngồi xuống, thì lại đi ra đi vô, rồi cứ quanh quẩn từ trong nhà ra tới ngoài vườn miết, chán gần chết. Chồng thì hết đi theo anh Ba ra thăm ruộng, về nhà thì chui rúc vô một cái xó ngồi vẽ tranh, ngắm cảnh. Tôi có muốn nói chuyện với chồng, thì cũng có biết nói cái giống gì đâu.”
Cậu Năm Phước nghe vợ nói vậy thì tỏ ý không vui: “Mình nói chuyện nghe kỳ quá! Tôi với mình đều là người theo Tây học, tôi cũng không có thủ cựu tới mức bắt mình phải ôm khư khư cái câu ‘Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử’ nhưng tôi giữ đúng đạo làm con, làm chồng, thì mình cũng nên giữ đúng cái đạo làm dâu, làm vợ. Mình làm như vậy hoài, cha má buồn phiền mình dữ lắm.”
“Phải rồi. Chẳng thà mình cứ nói phức ra cho tôi hay ngay từ đầu có phải tốt hơn không? Suốt ngày cứ lầm lầm lì lì, hổng nói hổng rằng gì hết, làm tôi không biết đường đâu mà lần. Giờ mình đã nói thẳng ra như vầy, thì tôi cũng nói thiệt cho mình hay.”
“Mình nói nhỏ nhỏ thôi. Mình nói vầy, cha má nghe được, cha má rầy chết.”
Mợ Tuyết Mai nghe vậy cãi lại liền: “Đạo làm con thì đời này ai mà hổng biết. Tôi là tôi nể cái tính đó của mình lắm, nhưng mà khư khư giữ cái cách sống kiểu như mình đó, thì tôi nói thiệt, tôi làm hổng có được. Vợ chồng mấy đứa bạn tôi đám cưới xong thì vợ chồng dắt nhau đi tuần trăng mật Đà Lạt hay Nha Trang gì đó tới mấy tháng trời, còn mình thì mới đi có mấy bữa đã kêu chán đòi về nhà, rồi suốt ngày ru rú trong nhà, tôi rủ đi đâu chơi cũng không đi. Cái trí của mình suốt ngày cứ thơ thẩn, còn cái tâm thì đặt hết vô mấy bức tranh, ngó ngàng gì đến mấy thú vui ở đời.”
“Mình…”
“Mình dòm lại bản thân mình đi. Mình sống như vậy là có phải với tôi hay không. Riết rồi tôi thấy mình sống ở trong cái nhà này không có ra con người, mà giống như một con gà mái vậy, cốt ở đây cũng chỉ là để đẻ trứng.”
“Mình đừng có nói lớn. Mình nói gì thì cứ nói nhỏ nhỏ thôi, để vợ chồng mình nghe là được rồi. Sao mình cứ la làng la xóm hoài vậy?”
Tự nhiên vợ chồng người ta gây lộn, tôi lại bị kẹt ở đây. Bây giờ ngồi đây cũng không được, mà giờ đứng dậy đi thì cũng không biết phải chen vào làm sao.
Tôi không còn cách nào khác, đành phải trở thành người giảng hòa: “Thím Năm bớt nóng đi. Có chuyện chi thì vợ chồng ngồi xuống thủng thẳng* nói với nhau. Giận quá mất khôn.”
(*) từ từ, thong thả.
Bình luận
Chưa có bình luận