“Cassandra, con gái của vua Priam thành Troy…”
Chiếc xe màu bạc như con rắn nhỏ, linh hoạt trườn qua con đường phủ tuyết dày rồi dừng lại trước khu tập thể đã bị thời gian quên bỏ quên. Bên trong xe, Khuê quấn chiếc khăn len màu máu, dày đến mức cổ em gần như biến mất sau những lớp đỏ san sát. Em cầm túi giữ nhiệt bằng vải mềm, màu xanh lợt như mây mùa đông, bình sữa ông Huy nhắc mang theo từ nhà vẫn còn nguyên hơi ấm. Khuê mở nắp, mùi sữa tản ra, tan vào không khí lạnh, ngọt đến mức cay mắt.
Khuê nhấp một ngụm, vệt sữa trắng vẽ một vòng cung nhỏ trên môi, nom em y như chú mèo ăn vụng bị dính hạt cơm trên mép. Em nghiêng đầu, nhìn ông qua gương chiếu hậu, đôi mắt đen ngời lên ánh sáng tinh quái. Không báo trước, em nhào sang, hôn lên má ông, khiến sữa dính lên mặt ông như một dấu ấn. Ông toan lau đi, nhưng em giữ tay ông lại rồi bật cười khúc khích, tiếng lanh lảnh thìa bạc chạm vào thành ly sứ. Bạn Sóc ló đầu ra khỏi túi áo em, hai mắt tròn xoe nhìn gương mặt ông với vẻ hoài nghi khôi hài.
Vào đến quốc lộ, xe đi chậm dần rồi dừng ở trạm xăng. Khuê duỗi người, muốn ra ngoài mua đồ ăn vặt thì phát hiện cửa xe đã bị khoá, còn chưa kịp làm gì thì đã bị ông Huy kéo lại. Em ngồi im, mắt mở to như con cáo nhỏ bị giật mất bữa gà thịnh soạn sau một ngày nhịn đói. Cáo nhỏ giận lắm nhưng không biết phải kêu ai - em để quên điện thoại ở nhà mất rồi. Khuê lầm rầm, giơ chân đá nhẹ vào cửa xe. Ở phía xa, ông Huy đứng dưới mái che của cửa hàng tạo hoá, xếp hàng mua bánh quy. Như cảm thấy gì đó, ông quay lại, ô tô chỉ là một điểm tí hon, chống trộm không kêu. Ông bật cười. Cáo con vẫn bị nhốt, và sẽ được dỗ bằng bim bim vị gà rán.
Lúc xe đi vào khu nhà, tuyết vẫn rơi lặng lẽ như thể bầu trời đang khóc thương cho một chàng thanh niên yểu mệnh - mớ lý thuyết mà ông Huy biết rõ là trò bịp bợm. Trời mưa như khóc trước nay vẫn là kiểu ví von rỗng tuếch của những kẻ thừa hơi, và luôn thích áp đặt tư duy chủ quan lên những thứ chúng chẳng hề lý giải nổi bằng khoa học. Mỗi ngày có hàng trăm, hàng nghìn người không qua khỏi, nếu ai ông trời cũng khóc, ông Huy đoán, chẳng cần tới ba ngày, ông trời sẽ tự vào viện trước vì tội lao lực. Mấy thuyết văn chương sáo rỗng.
Ánh mắt ông dừng lại ở những đoạn băng đỏ giăng quanh tầng hiện trường vụ án. Khuê cau mày, siết lấy tay ông. “Bé tưởng đây là một vụ tự sát thông thường, tại sao lại có cảnh sát vậy ạ?”
Ông không trả lời mà chỉ nhìn ra qua lớp kính đã bị hơi nước làm mờ. Đây vốn chỉ là vụ tự sát thông thường, nhưng khi điều tra đến nhà tên này, người ta tá hoả khi thấy một con ma nơ canh mặc đồng phục cảnh sát treo lủng lẳng giữa phòng. Và dĩ nhiên là họ chẳng thể làm gì hơn, vì tên này đã nhanh hơn lực lượng chức năng, quyết tâm kiếm vé một chiều về với đất mẹ.
Một người sĩ quan trẻ đi từ trong tòa nhà ra, cúi đầu chào. Ông Huy hạ kính, gật đầu đáp lại. Khuê làm theo, Bạn Sóc cũng nhanh chóng gập cái đầu nhỏ đầy lông xuống - biểu hiện đầu tiên của sự hữu nghị. Anh sĩ quan có vẻ bất ngờ khi thấy Khuê và Bạn Sóc bên cạnh ông Huy, nhưng phản ứng của anh ta vẫn nhanh hơn vẻ ngạc nhiên. Sau khi đưa thẻ công vụ cho ông Huy, anh chàng im lặng, duy chỉ ánh mắt vẫn lén lút dừng lại ở túi áo Khuê, nơi có Bạn Sóc đang không kiềm được, cứ lục cục nhô ra đòi tự do.
“Bạn ở yên nào. Quan trọng đấy.” Khuê thì thầm, giọng nhẹ như vỗ về một đứa bé nghịch cát trong ngày gió lộng.
Ông Huy tháo dây an toàn, quay sang em, giọng trầm ấm. “Bé có muốn vào không?”
Khuê đang vật lộn với Bạn Sóc không nghe lời, nghe thế thì lắc đầu. Ông Huy gật, không ép, chỉ dặn em đừng đi lung tung, rồi mở cửa bước vào tầng lầu phủ bụi.
***
Hiện trường vụ án là một căn phòng nằm ở tầng 3, góc bên trái của tòa nhà, khuất ánh sáng nên lúc nào trông cũng u ám và thiếu sức sống. Căn hộ số 312 nằm sát ban công nhất, và cũng là nơi nhận được ít ánh sáng nhất. Còn chưa đến gần, ông đã cảm nhận được mùi ẩm mốc lan tỏa trong không gian. Ông Huy tiến đến chỗ anh sĩ quan đang trực bên ngoài, hỏi xin một đôi găng tay rồi mới vào trong.
Ấn tượng đầu tiên của ông về căn phòng là mùi, rất nhiều loại mùi - mùi dầu mỡ máy ảnh cũ và chút gì đó khét lẹt, lạnh như gỉ sắt, bám cả vào vách tường. Trên trần có móc treo rỉ sét, sợi dây dù trắng đã gãy cuộn lại dưới sàn như một con rắn chết. Xung quanh thi thể (tất nhiên là hàng giả, đã được chuyển đi và thay thế bằng nét mô phỏng) là hàng trăm tấm ảnh, tất cả là chân dung các cô gái tuổi đôi mươi, được xếp thành vòng tròn, không thứ tự, không hệ thống. Giữa những khuôn mặt ấy, có một khuôn mặt mà ông Huy nhận ra ngay cả khi lướt nhìn trong tích tắc.
Khuê.
Ông cúi xuống, cầm một tấm ảnh lên và một suy nghĩ bật ra trong đầu ông - tên này không phải chỉ là kẻ chụp trộm. Gã đã dành nhiều năm để chờ từng khoảnh khắc, bởi mỗi bức ảnh là một cú bấm máy có chủ ý, một cái bẫy ánh sáng không sai lệch.
Tấm ông đang cầm là lúc Khuê đi mua trà sữa. Em mặc áo len đỏ, đầu hơi ngẩng, miệng hơi hé, mắt mở to nhìn menu như một đứa trẻ đang cố đọc thật nhanh, sợ bị người lớn bắt gặp. Cũng phải thôi. Từ sau vụ bị sâu răng phải vào viện, ông đã nghiêm cấm em ăn ngọt, nhưng có vẻ lệnh cấm này không có hiệu quả, em vẫn lách luật - bằng cách này hay cách khác.
Một bức ảnh khác là lúc em đi bên ông, ôm hộp sữa, nửa gương mặt trốn sau lớp khăn quàng như thể biết trước bản thân đang trở thành tâm điểm của sự chú ý. Chủ thể được cố định rõ ràng, từng khung hình đều được lấy nét chính xác như thể người chụp biết rõ em sẽ đứng đâu, quay đầu khi nào, và nghĩ gì.
Bức tường đối diện bàn làm việc là một bức tranh lớn, được đóng khung cẩn thận, đặt ngay ngắn ở chính giữa. Mọi thứ trong phòng chìm trong u ám, ngoại trừ bức tranh được ánh sáng xiên qua khe cửa rọi thẳng vào vị trí, những vết xoay ghế trên đất và một góc bàn bạc màu cho thấy người đã khuất đã dành không ít thời gian gác chân lên bàn, tỉ mẩn ngắm nhìn bức tranh.
Bình luận
Chưa có bình luận