Chương 7: Lần gặp đầu, ai nhìn ai? Nàng mù chẳng thấy, Thanh hoài ngẩn ngơ.


Lều rách giữa đêm gió rung,
Huỳnh Nhài Thanh đứng, Huê dừng lặng thinh.
Mờ sương chẳng tỏ bóng hình,
Gặp nhau một thoáng, nặng tình ngàn sau.


Nhài Thanh chẳng buồn ngó ngàng đến cái bộ dạng thất thần của Thị Huê, chỉ cúi xuống săm soi chính mình từ đầu đến chân.

Ừ thì...

Quần áo nát bươm, yếm trong xổ ra một bên, bên còn lại dúm dó kẹp vào dây lưng. Áo thì chằng đụp vá víu, rách lả tả như màn sờn treo trước gió. Nón lá thì thủng lỗ chỗ, vắt ra sau gáy như cái rổ bể. Chân đi guốc gỗ, một quai sứt, bước thấp bước cao, lạch cạch lạch cạch như chóe nước rạn miệng. Đầu tóc bù xù, từng lọn rối bết vào nhau, xoa tay lên còn mắc kẹt. Hai má lấm lem bùn đất, đầu mũi quệt tro đen sì, trông hệt vừa thò đầu vào bếp lò. Tay lại còn lăm lăm quả chuối nướng đựng cùng cái bánh tiêu méo mó, lem nhem dầu mỡ.

Đúng thật là có hơi nhem nhuốc, hơi khó coi, nhưng có đến nỗi quỷ quái gì đâu mà tròn mắt thất kinh?

Nhài Thanh bĩu môi, liếc sang Thị Huê.

Thấy nàng ta ngồi chết trân, sắc mặt trắng bệch, đôi tay quờ quạng trước mặt như kẻ bịt mắt mò đường. Đôi môi mấp máy, giọng run rẩy vẫn hỏi: "Ai đấy...?"

Nhài Thanh nghệt mặt.

Là cái giống gì đây?

Đôi mắt kia vẫn mở trừng trừng, tròng mắt đen lay láy, trong veo như nước giếng buổi sớm. Đồng tử chẳng đục chẳng lác, mà sao cứ làm bộ làm tịch như đui mù, tay quơ chân quào như thể mất vía.

Hừm...

Nhài Thanh nheo mắt, nghiêng đầu nhìn cho kĩ. Chẳng lẽ... biết mình là con Thanh Dở nên bày trò? Chắc thấy bộ dạng mình dơ dáy, lôi thôi, không muốn dính vào nên giả bộ không thấy gì?

Ôi chao! Đúng là khéo tính toán!

Nhài Thanh hừ mũi, khóe miệng nhếch lên, rồi bỗng nhiên phì một tiếng, giọng chua loét như mẻ ngâm:

"Tiểu thư ơi là tiểu thư, xin tiểu thư về nhà cao cửa rộng của tiểu thư đi! Nhà năm gian, rương vàng chất đầy, cơm bưng nước rót, lụa là quấn chân! Chốn này chỉ là cái xó nghèo, xin tiểu thư thương tình, đừng tranh với phận hèn như chúng tôi! Kẻo sau này, e rằng con cháu cũng chẳng có phước phúc đâu!"

Nói rồi, cô còn chắp tay mà vái, mặt vênh lên, giọng điệu chỏng lỏn, cay chua.

Thị Huê thoạt đầu sững sờ, nhưng nghe giọng nói kia, chừng như nhận ra vẫn là phận nữ nhi, liền buông tay xuống, người đang căng cứng cũng lơi ra đôi phần. Một lát sau, nàng ta bật cười khẽ, tiếng cười nhẹ mà chua chát như nước bồ hòn.

"Là cha cho người đưa tôi đến đây."

Nhài Thanh đứng đực.

"Hả?"

Một tiếng "hả" bật ra rõ to. Rồi cô lại "ờ" một tiếng, đầu vẫn nghệt ra như gà mắc tóc. Cái bộ dạng không khác gì vừa nghe chuyện động trời, chuyện lạ nhất làng Đông Tụ. Còn Thị Huê, nàng ta vẫn ngồi yên, không động đậy. Hai bàn tay đan vào nhau. Một lát sau, nàng khe khẽ thở ra, giọng nói nhẹ hều, mà nghe buốt cả ruột gan:

" Tôi là Bùi Thị Huê..." Nàng giới thiệu.

Còn chưa đợi Thị Huê nói dứt câu, Nhài Thanh đã "ừ" một tiếng, miệng lanh chanh chen ngang, giọng còn vút lên như chê bai câu chuyện nhàm chán. Rồi "phịch" một cái, cô ngồi chồm hỗm xuống ngay bên cạnh, đất cát văng lên, tà áo càng lấm lem. Thị Huê nghe động, lại cảm được hơi người sát bên, liền giật mình, vai khẽ run. Nhưng Nhài Thanh nào có để ý, cứ hồn nhiên mà tuôn một tràng, giọng nhấm nhẳng như chanh ngâm muối:

"Tao biết, tao biết! Phận nghèo này sao dám không biết! Đào (1) là con gái ruột của ông Tộp, phú ông địa chủ giàu nứt kẽ gạch trong làng Đông Tụ! Cái danh nhà Đào rền khắp chợ, khắp đình! Đào là cành vàng lá ngọc, má phấn môi son, con nhà trướng rủ màn che, ăn ngon mặc đẹp, đi bước nào có kẻ hầu hạ bước đó! Đào muốn gì được nấy, đàn ông trong làng đứng xếp hàng dài, từ cổng đình ra tận bến nước! Một sợi tóc Đào rơi cũng có người bu vào xót thương như mất bạc mất vàng! Có đúng không hở Đào?

Cô kéo dài giọng, luyến láy từng chữ, nghe vừa xót vừa cay, cứ như đang nhại lại một gánh cải lương chốn đình làng. Nói dứt, Nhài Thanh chẳng thèm liếc xem sắc mặt Thị Huê ra sao, chỉ thọc tay moi ra cái bánh tiêu cắn dở vừa giắt vào túi áo. Bánh tiêu bị ép chặt, giờ bung ra, mùi dầu mỡ hòa với đường cháy bốc thẳng vào mũi. Nhài Thanh hí hửng đưa lên cắn một miếng rõ to, bánh mềm, nhân đường sực ra đầu lưỡi, cô nhai chóp chép đầy thỏa mãn, lại còn tự gật gù như khen mình nói quá chí lý.

Nhai thêm vài ba miếng, Thanh lại uể oải buông một câu, giọng nghe vừa chán chường, vừa chua loét như bát canh cua quá tay mẻ:

"Đào chơi chán rồi thì làm ơn cuốn gói về đi. Cái vườn hoang này tao nhận là của mình, đã đành. Nhưng tao sợ chủ vườn một thì sợ Đào đến mười! Ông Tộp mà hay tin Đào chui vào đây, lại còn lân la với tao… lỡ có mệnh hệ gì, ổng quát một tiếng, người nhà ổng đạp tao gãy xương! Tao thân nghèo, mạng hèn, chết cũng chỉ có mấy con chó hoang ngửi xác, nhưng tao không muốn chết oan đâu nha!

Vừa nói, cô vừa hừ một tiếng, tay phủi phủi vạt áo, mắt thì lờ đờ ngó trời sao như thể cái chuyện sống chết mình vừa nhắc đến cũng nhẹ như một cơn gió thoảng giữa đồng chiều.  Nói xong lại cắn thêm miếng bánh tiêu. Cô vừa nhai, vừa liếc nhìn sang Thị Huê, mắt đảo qua đảo lại, hết nhìn mặt lại nhìn tay, rồi dừng lại ở chỗ đôi môi mím chặt kia.

Kỳ lạ thay, hôm nay cô thấy mình thèm cái bánh tiêu này ít đi, mà lại thèm Thị Huê nhiều hơn. Ấy chết, nói thế nghe sai lắm, là mê mới đúng!

Con bé Thị Huê này… nó đẹp, mà cái đẹp lạ lắm cơ. Người ta đẹp thì cũng chỉ đẹp một thứ, như môi đẹp, mắt đẹp, dáng đẹp, chứ ai mà lại đẹp đều tăm tắp, không có chỗ nào chê như thế này? Nhìn từ trên xuống dưới, từ mái tóc đen nhánh rủ trên vai, đến làn da trắng nõn như sứ, rồi đôi tay thon dài đang nhẹ nhàng đặt trên gối. Nhài Thanh nhìn mà thấy tức. Đẹp vậy thì ai chơi lại?

Mắt cô dán chặt vào Thị Huê, chăm chăm đến mức quên cả chớp. Ấy mà người ta vẫn chưa mở miệng nói câu nào.

Nhài Thanh nghĩ, hay là Đào khinh mình? Nghĩ đến đó, cô liền hất cằm, định bụng buông vài câu xỉa xói. Nhưng ngay lúc ấy, cái giọng nói ngọt như rót mật kia vừa hé được một chữ:

"Tôi…"

Chưa kịp hết câu, một tiếng ọt ọt vang lên rõ to, dội vào vách lều tranh, vang đến tận tai Nhài Thanh. 

Cô trố mắt, nhìn cái dáng trắng muốt của Đào đang co rúm lại, hai bàn tay bấu chặt tà áo, mà gò má thì đỏ au như trái gấc vừa chín. Trời đất ơi, cái người lúc nào cũng chải chuốt tinh tươm, đứng ngồi cũng phải đoan trang, lại có ngày để cho cái bụng réo như đánh trống thế này ư?

Nhài Thanh suýt thì phì cười. Mà không hiểu làm sao, tự nhiên cô lại đưa tay lên che miệng. Bình thường cô đâu có vậy đâu, cái gì đáng cười là cười vô tổ vạ, cười đến lăn lộn đất cát, chứ có bao giờ giữ ý như bây giờ?

Cô băn khoăn, rồi lại tự nhủ, chắc là ở cạnh hạng người sang, mình cũng không muốn để bị đánh giá là quá chợ búa…!

Bên kia, Thị Huê nghe tiếng nhai chóp chép ngay bên tai, rồi cảm nhận từng đợt hơi nóng phả ra, gò má càng đỏ phơi phới. Nàng im lặng một lúc, rồi khẽ cất giọng, giọng nói nhẹ hệt tơ bay trong gió:

"Có thể… cho tôi ăn cùng được không…?"

Nhài Thanh đơ ra như bị ai điểm huyệt, tròng mắt chớp lia lịa, mãi mới lắp bắp được một câu:

"Ăn… ăn cái gì cơ?"

Thị Huê chẳng đáp, cũng chẳng gật đầu, chỉ lặng thinh. Nhài Thanh đâm ngờ, liếc ngang liếc dọc, rồi vô thức cúi xuống nhìn cái bánh tiêu cầm nơi tay. Cô nhìn một lát, bỗng ngẩng lên, ngờ ngợ hỏi:

"Ý mày là… ăn bánh tiêu á?"

Thị Huê khẽ gật.

Nhài Thanh ồ một tiếng, chẳng nghĩ gì nhiều, liền xòe tay ra đưa bánh tới trước mặt nàng. Nhưng ngay khi Thị Huê còn chưa kịp nhúc nhích, đầu óc cô bỗng xoay một vòng, bàn tay cũng theo bản năng mà rụt về. Cô gãi gãi đầu, môi mấp máy:

"Gượm đã… cái này tao đang ăn dở rồi."

Nói đoạn, Nhài Thanh lật đật thò tay vào trong lồng áo, móc ra một túi bóng nhàu nhĩ, lôi từ trong đó ra một cái bánh tiêu khác. Chiếc bánh vàng ươm, phồng phồng, tròn trĩnh như mặt trăng rằm, còn nguyên si chưa vết xâm phạm. Nhài Thanh cười hề hề, tiếng cười giòn tan như hạt thóc nảy trên sân phơi. Cô hồn nhiên chìa bánh ra không trung, thoải mái rộng lượng nói:

"Đây! Ăn cái này này, một cái bánh tiêu còn mới nguyên, nóng hổi vừa thổi vừa ăn nha!"

Bánh cắn dở trên tay trái là của Nhài Thanh. Bánh nguyên si bên tay phải là của Thị Huê. 

Hai cái bánh tiêu nóng hổi phảng phất trong gió, cái thơm ngọt của bột, cái béo ngậy của dầu chiên lan ra, quẩn quanh như cố tình trêu ngươi kẻ đói. Thị Huê cắn răng, bụng sôi ùng ục, âm thanh nhỏ thôi nhưng nàng nghe rõ mồn một. Một giọt nước bọt len lén tràn lên đầu lưỡi, nàng nuốt xuống, nuốt rất khẽ, ấy vậy mà vẫn không qua nổi cặp mắt sắc như dao của con Thanh Dở đang nhìn chằm chằm.

Nhưng Nhài Thanh nào có bận tâm chuyện Thị Huê thèm hay không, cái làm cô lạ mắt chính là cái dáng điệu khép nép đến khó tin của nàng. Một tiểu thư nhà giàu, lụa là nhung gấm hẳn hoi, mà cứ cúi gằm mặt như thể dưới đất có vàng ròng. Nhìn đi nhìn lại, Nhài Thanh cũng chỉ thấy Thị Huê nhìn đất chứ chẳng nhìn cô. Mà như vậy thì còn có một lẽ gì ngoài khinh khi? Nghĩ tới đây, Thanh Dở bỗng cười khẩy một tiếng, nhai bánh rau ráu, nghĩ bâng quơ: Giống nhà giàu cũng chịu ngồi yên với con Thanh Dở này mà không xua không đuổi, thế coi như mình có phước lắm rồi.

Cô cắn thêm một miếng bánh, đoạn nghiêng đầu, mắt nheo nheo:

"Mà người giàu, kẻ ăn người hầu, mâm vàng yến tiệc cũng ăn bánh tiêu ư?"

Thị Huê thoáng ngẩng mặt, miệng hơi hé ra như sắp đáp gì đó, nhưng cuối cùng chỉ cười nhạt một tiếng, điềm nhiên nói:

"Không ăn thì ăn cái gì, tôi là người còn sống sờ sờ, chứ có phải kẻ chết trôi đâu mà hổng ăn."

Nhài Thanh nhướn mày, ngẫm nghĩ một hồi, thấy cũng có lý. Cô liếc xuống cái bánh tiêu còn lưng chừng trong tay mình, lớp vỏ ngoài vẫn giòn, màu vàng ruộm, thơm nức. Không chần chừ thêm, cô dúi cái bánh còn nguyên trao tận tay đến Thị Huê, nheo mắt cười:

"Vậy ăn đi. Ăn thử xem cái thứ mà dân đen nghèo mạt chúng tao xơi có hợp miệng Đào mày hay không?"

Lời vừa dứt, Thanh Dở còn tưởng mình sẽ nghe một câu từ chối khách sáo nào đó, hoặc ít nhất là một chút lưỡng lự. Nhưng không—Thị Huê đón lấy chiếc bánh rất nhanh, hai bàn tay trắng nõn bám nhẹ vào mép bánh, rồi không đợi thêm lấy một giây, nàng lập tức đưa lên miệng. Nàng cắn một miếng to. Không nghe thấy tiếng nhai, nhưng chỉ cần nhìn cái động tác kia thôi cũng đủ biết nàng nhai rất nhanh, rất vội, như thể sợ ai đó giật mất. Hai gò má hơi phồng lên, cằm chuyển động liên hồi, tay còn hơi siết lại, sợ nó tuột đi mất.

Nhài Thanh khựng lại. Cô nhìn, nhìn đến đăm đăm. Tiểu thư khuê các gì mà kỳ cục vậy? Ăn chẳng khác gì kẻ bị bỏ đói mấy ngày liền.

Lòng cô bỗng dưng nảy ra một chút khó hiểu, một chút gì đó không rõ là ngờ vực hay tò mò. Rốt cuộc, cái tiểu thư này là người thế nào đây?

Thị Huê nhai nhẹ, từng miếng bánh tiêu trôi qua cổ họng, đem theo cái nóng hổi của dầu chiên, cái thơm lừng của bột mì quện đường. Nàng nuốt xuống, bụng thì ấm, mà lòng thì lạnh. Cái vị ngọt nơi đầu lưỡi không át nổi cái đắng chát dâng lên trong dạ. Hai con mắt trong veo bỗng ươn ướt, hơi nước bám lên tựa giọt sương đọng đầu lá, chỉ chực tràn ra.

Nhài Thanh thấy vậy, giật nảy người. Cô bật dậy khỏi manh chiếu rách trên chiếc giường tre, nhảy tới trước mặt Thị Huê, trợn mắt mà quát:

"Này này này! Mày đừng có thấy bánh tiêu thơm ngon mà khóc! Ăn thôi mà cũng rớt nước mắt, bộ chưa từng ăn hay sao? Tao mà để mày rớt một giọt nước mắt ở đây, ông Tộp biết được, tao chỉ có nước vong mạng!"

Mồm nói cứng, nhưng trong bụng Nhài Thanh không khỏi se lại. Ông Tộp là ai? Là hổ dữ nuốt người không nhả xương. Nào phải cô không biết sợ. Mấy kẻ bần hàn đạp đất ở cái xó chợ này, đứa nào đứa nấy hễ nghe tới tên lão là rụt cổ thụt đầu. Chỉ có mình cô là cứ nhâng nhâng nháo nháo, nào cười, nào chọc, nào xỏ xiên. Nhưng cái miệng lanh chanh ấy chẳng qua cũng là cái lốt cô tròng lên mà thôi. Chó dại không ai dám dây, người điên người dở không ai dám chọc. Thành thử, Nhài Thanh cứ làm như mình khùng, mình chướng, người ta cũng ít khi muốn đụng đến. 

Có điều, mấy cái mẹo vặt ấy chỉ cầm cự được dăm ba bữa. Chứ thử ông Tộp hạ lệnh lùng sục vài ngày coi? Lưới giăng xuống, cá nhảy kiểu gì cũng mắc. Lúc đó, đừng nói trốn, đến cả cái mạng cũng chẳng biết vùi vào xó nào. Lại thêm con gái cưng của lão ở đây khóc lóc, lão không nổi cơn ngộ mới lạ! Nghĩ tới đây, da gà trên người Nhài Thanh nổi lên từng mảng, chân mày cau lại, liếc nhìn Thị Huê mà thêm phần bực dọc.

Bên kia, Thị Huê đưa tay quệt ngang mắt, chẳng rõ là lau lệ hay chỉ là thói quen khi nghe người khác nói lớn giọng. Cái bánh tiêu trong tay nàng đã hết nhẵn tự bao giờ, hai bàn tay trắng nõn chỉ còn dính chút đường vụn. Một lúc lâu sau, nàng mới chậm rãi mở miệng, giọng nhỏ như tiếng gió rít qua tán lá:

"Cô... tên gì?"

 Gió rì rào ngoài ruộng, luồn qua từng lọn tranh thủng, vỗ về gian lều xiêu vẹo như kẻ hành khất vừa đi xa trở về, khẽ rên rỉ trong tiếng kẽo kẹt của tre nứa xô vào nhau.

Nhài Thanh thoạt nghe câu hỏi của Thị Huê thì sững ra một lúc. Vẻ mặt cô kiểu: Mày không biết tao á? Mày lại không biết tao là ai?" Cô trố mắt, ngón tay xỉa thẳng vào mặt mình, bộ dáng dở dở ương ương đang nghe thấy chuyện lạ chưa từng có.

Trên dưới làng Đông Tụ, có ai mà chẳng biết con Thanh Dở?

Cái xóm này, từ đứa trẻ miệng còn hôi sữa đến ông già run run chống gậy, ai mà chẳng từng nghe danh cô? Người ta thấy cô là réo, là chửi, có kẻ cười, có kẻ cau mày, nhưng tuyệt nhiên chẳng ai lạ lẫm. Vậy mà cái con gái nhà ông Tộp này, cái đứa sinh ra trong nhung lụa, lớn lên giữa vàng son, lại có thể hỏi một câu trống không như vậy ư?

Nhưng nghĩ kỹ thì cũng phải. Khi Nhài Thanh lê la ngoài chợ, trộm mẩu bánh thừa, hứng cả tràng mắng chửi, thì con Thị Huê này ngay ngắn trên nhà trên, quỳ trên chiếu mà ê a đọc sách. Khi cô lủi vào bếp người ta, nhón trái bắp khô rồi chạy trối chết, thì nó ngồi sau tấm rèm nhiễu, tập cầm đũa sao cho khéo, tập nâng chén sao cho duyên. Khi cô trèo rào chọc chó, cười ha hả trêu bọn phú ông, bị rượt chạy trật cả guốc, thì nó thảnh thơi nằm trên phản lim, ngủ một giấc trưa dài không vướng bụi trần.

Một đứa lăn lóc đầu đường, một đứa nép mình trong lụa là. Một đứa bới móc tìm miếng ăn, một đứa cười nói giữa mâm cao cỗ đầy. Hai đường đời ấy, chưa từng giao nhau.

Bây giờ lại gặp thế này, chẳng phải là lạ lắm ư?

Nhài Thanh bỗng thấy buồn cười, bật hừm hừm hai tiếng, vỗ vỗ lên lồng ngực mình, mặt mày vênh váo ra trò. Chiếc nón cời lủng mấy lỗ trên vai được tháo xuống, phe phẩy như quạt. Một tay chống hông, một tay gõ gõ vào ngực, cô nhướng mày, hắng giọng, rồi đột nhiên cất tiếng, giọng sang sảng:

“Trời trăng chứng giám, gió lộng bốn bề, hãy lắng tai nghe cho tỏ! Ở cái đất Đông Tụ này, có một kẻ đi không đổi tên, ngồi không đổi họ.
Khi no thì cười, khi đói thì than. Khi chạy nhanh như ngựa, lúc lại lười hơn trâu. Dẫu không nhà, nhưng đất trời là mái. Dẫu không cửa, nhưng bốn phương là sân. Sống bằng ba tấc lưỡi, ăn nhờ cái chân lẹ, cóc cần ai thương, chẳng sợ ai ghét!"

Nhài Thanh khịt mũi một cái, nhún vai, hất cằm đầy kiêu ngạo.

"Người ta đồn thổi, kẻ ấy là một quái nhân.
Kẻ cười thì bảo là yêu tinh gió cuốn, kẻ mắng thì bảo là ma đói đầu đường. Nhưng ai có mắt thì nhìn mà rõ! Ấy chính là tao đây, kẻ duy nhất có thể nói rằng.."

Thanh vén môi lên: 

"Xưa nay ăn xin cũng phải có phong cách!'”

Nói đoạn, cô gõ mạnh vào ngực mình một cái, môi cười cong vút:

"Huỳnh - Nhài - Thanh !"

"Tao chính là con Thanh Dở mà thiên hạ đồn thổi khắp chốn khắp nơi!"

Dứt câu, cô bật cười ha hả, cái điệu cười lanh lảnh vang lên giữa đêm khuya, đâm thủng cả màn tĩnh lặng.

Thị Huê vẫn ngồi yên, bóng dáng mảnh mai của nàng ẩn hiện dưới ánh trăng, tựa hồ như đang nghĩ ngợi điều gì. Một lúc sau, nàng ngẩng đầu lên, ánh mắt trong vắt. Đôi môi nhỏ mím lại một chốc, rồi chậm rãi kéo lên một nụ cười nhàn nhạt, giọng nàng dịu như gió thoảng:

“Hóa ra… là Nhài Thanh đấy ư?”

Nhài Thanh sững lại một nhịp. Cái cách nàng nói ra câu ấy, nghe có phần gì đó… khác lạ. Không phải cái kiểu kinh ngạc như vừa gặp một kẻ lạ mặt, cũng không giống cái kiểu mỉa mai mà đám nhà giàu hay dùng. Giống như nàng đã nghe cái tên ấy từ lâu lắm rồi, mà chỉ vừa mới tận mắt thấy.

Lạ thật.

Gió đêm vẫn thổi, lồng lộng mà mát lạnh.

"Mày... mày gọi tao là gì?"

Thị Huê thoáng ngập ngừng, hàng mi khẽ động, rồi chậm rãi nhắc lại, từng chữ nhẹ như gió lướt qua mặt nước:

"Nhài Thanh."

Hai tiếng ấy—rõ ràng, rành rọt, không mang theo trêu chọc, không có chút khinh khi, cũng chẳng hề xót thương.

Chỉ đơn giản là gọi.

Nhài Thanh không phải không nghe rõ. Cô nghe. Nghe rõ mồn một. Nhưng nghe rồi mà không tin. Từ bé đến giờ, ai đã gọi cô là Nhài Thanh đâu? Người ta chép miệng cười hô hố: "Con Thanh Dở!" Có đứa bĩu môi cười khinh: "Thanh Điên!" Thậm chí còn có kẻ chửi thẳng vào mặt: "Đồ chó bám đuôi!"

Tên thật của cô, cứ thế mà bị xóa đi, vùi vào bùn đất, không ai gọi, cũng chẳng ai cần.
Vậy mà hôm nay, giữa một đêm đầy gió, một tiểu thư con nhà phú hộ lại thốt lên cái tên ấy—không vướng bận gì ngoài ý nghĩa vốn có của nó.

Nhài Thanh chớp mắt một cái, lòng dạ xốn xang như có gì vừa khuấy động.

Một giọt nước mắt rơi xuống.

Cô không nhận ra.

Đến khi hơi lạnh trên má lan ra, cô mới sực tỉnh, hốt hoảng giơ tay áo lên lau. Lau vội, lau mạnh đến mức má đỏ lên, như thể chà rửa một vết bẩn đáng ghét.

"Khóc cái gì! Không được khóc!" Cô nhẩm trong bụng. Cô cố nghiến răng, cố nhếch mép lên cười. Nhưng nụ cười chưa trọn, đã méo xệch đi mất. Cái mặt cô, nó tự dưng mêu mếu ra, trông còn khổ sở hơn cả lúc bị rượt đánh.

Nhài Thanh ngước mắt nhìn Thị Huê. Tiểu thư nhà giàu, áo lụa quần là, da trắng như bột, lớn lên trong nhung lụa..

 Những người như vậy, trước giờ có bao giờ nhìn cô ra một con người đâu.

Nhưng đêm nay, dưới ánh trăng lơ lửng, cái người tưởng chừng xa cách ấy lại nhẹ nhàng gọi cô một tiếng—

"Nhài Thanh."

Cô từng thấy cái tên này vừa quê, vừa xấu, vừa không có nghĩa lý gì. Vậy mà bây giờ, chỉ vì một lần được gọi đúng, nó bỗng trở nên đẹp lạ thường. 

Thị Huê đợi lâu lắm, lâu đến nỗi nghe được cả tiếng côn trùng rỉ rả ngoài vườn mà vẫn chẳng thấy người kia đáp lời. Bàn tay nàng khẽ cựa, lần theo mặt giường tre, rồi khe khẽ xoay về phía trước. Giọng nàng nhẹ bẫng, như sợ kinh động thứ gì mong manh:

“Nhài… Nhài Thanh, cô còn ở đó không?”

Một câu hỏi nhẹ hều, rơi vào lòng Nhài Thanh mà như quật mạnh một đòn.

Cô trố mắt, đứng trơ ra một lúc lâu. Trong lồng ngực, cái gì đó vừa chực dậy sóng lại bị cô nhét vội xuống. Mí mắt cô giật một cái, bàn tay theo thói quen vò lấy vạt áo, hệt như con mèo nhỏ vô thức xù lông khi bị ai bất chợt xoa đầu.

Nhài Thanh.

Nhài Thanh.

Không phải con Thanh Dở, không phải con khỉ gió, không phải mày hay nó. Lần đầu tiên có người gọi tên cô như vậy. Rõ ràng, rành rọt, không chút khinh khi.

Nhài Thanh vẫn xúc động lắm.

Cổ họng cô nghẹn lại, nhưng chỉ trong một chớp mắt, cô đã vội lắc đầu nguầy nguậy, mãnh liệt đến mức mấy sợi tóc con rung lên bần bật. Lúc này mà tỏ ra mềm lòng thì chẳng hợp với cái tiếng Nhài Thanh ngang bướng mà cô mang từ bé.

Nhưng rồi, một cơn lạnh sống lưng lại chợt dội lên. Nhài Thanh cau mày. Cô đứng đây, ngay trước mặt Thị Huê đây. Cô ấy ngồi trên giường tre, còn cô đứng ngay chính diện.

Vậy cớ gì phải hỏi cô có còn ở đó không?

Trong đầu như có ai vừa quật mạnh một đòn. Lòng cô trĩu xuống, mà đầu ngón tay thì bỗng dưng run run.

Không phải giả mù… mà là mù thật ư?

Một cơn gió lùa qua, lạnh buốt cả gáy. Thanh hít sâu, giọng bỗng thấp xuống, khàn khàn:

“Mắt mày… không nhìn thấy sao?”

Tiếng hỏi rơi xuống, nặng như đá tảng.

Bên kia, Thị Huê nghe thấy tiếng đáp thì vui. Nhưng nghe tiếng hỏi thì lặng một thoáng, rồi nàng khe khẽ “ừ” một tiếng. Nhẹ như lông tơ, nhưng lọt vào tai Nhài Thanh lại nặng tựa đập trống đồng.

Mắt Thanh trợn trừng. Hơi thở bỗng như mắc kẹt trong cổ họng. Một câu bật ra, lơ lớ còn mang theo cái khựng lại đầy sững sờ:

“Sao, sao lại thế? Sao tao lại không biết tiểu thư nhà ông Tộp mắt bị mù?”

Lời vừa ra khỏi miệng, Nhài Thanh đã muốn cắn lưỡi. Vội quơ quào tay chân mà chữa cháy:

“Không… Ý tao là trước đó không có tin đồn gì về việc tiểu thư Thị Huê hai mắt không nhìn được ấy."

Nói xong, cô bỗng sững người.

Lúc đứng ngoài lều, cô đã nghe thấy Thị Huê hát. Giọng ấy, bi ai, tủi thân, như người ta khóc thầm mà không dám bật thành tiếng. 

Giờ mới hiểu.

Là than số mù. 

Nhài Thanh nhìn Thị Huê. Cô cảm giác đau đáu lạ kì. 

Cô cũng mong đợi ngày cô được nói chuyện, được gặp trực tiếp gần sát với cái người được làng Đông Tụ coi là viên minh châu ấy. Ai mà ngờ...

Lần gặp mặt đầu tiên này..? Khác với tưởng tượng lắm. 

Nhài Thanh im lặng suy nghĩ. Thị Huê cũng im lặng không nói.

Không khí lặng như tờ. Lặng đến mức Nhài Thanh nghe được tiếng máu chạy rần rật trong tai mình, nghe được cả hơi thở của chính cô, từng nhịp, từng nhịp nặng nề, như có gì chẹn ngang lồng ngực.

Nhài Thanh cứ nhìn chằm chằm vào đôi mắt ấy. Đôi mắt mà trước đây, người ta vẫn hay xì xào khen ngợi, bảo là đẹp lắm, trong vắt như nước giếng đầu làng, sáng như sao rụng xuống mặt sông. Một đôi mắt như thế, lẽ ra phải lấp lánh, phải chứa đựng cả thế gian tươi đẹp trong đó. Vậy mà lúc này đây, cô nhìn mãi, chỉ thấy trong ấy một khoảng mịt mùng. Đồng tử tròn nhưng vô hồn, đen nhưng lạnh lẽo, chẳng một tia lay động, chẳng có chút phản chiếu của ánh đèn dầu lấp lóe bên góc lều.

Cô chớp mắt, nhưng cảm giác chua xót vẫn không tan đi.

Mù rồi.

Bùi Thị Huê mù thật rồi.

Cái ý nghĩ ấy vừa trượt qua đầu, Nhài Thanh liền thấy mình trĩu xuống. Một cơn ớn lạnh chạy dọc theo sống lưng, từng sợi da thịt trên người cô đều căng lên, như thể bị một cơn gió buốt quét qua.

Tiếc.

Tiếc quá.

Tiếc cho một đôi mắt đẹp thế này, lẽ ra phải được ngắm trời xanh, ngắm hoa nở, ngắm vạn vật muôn màu muôn vẻ. Tiếc cho một người như Thị Huê, lẽ ra có thể nhìn thấy tất cả những gì tươi sáng nhất, vậy mà giờ đây… chỉ còn lại một màu đen đặc.

Cô thử tưởng tượng.

Thử tưởng tượng chính mình một sáng thức dậy, mở mắt ra mà chẳng thấy gì. Không thấy ánh nắng len lỏi qua kẽ lá, không thấy những mái nhà tranh san sát, không thấy lũ chim sẻ ríu ran chuyền cành, không thấy làn nước trong veo phản chiếu gương mặt mình khi cúi xuống bờ giếng.

Màu xanh của trời.

Màu nâu của đất.

Màu rực rỡ của vạt hoa ven đường, của tấm áo ai bay trong nắng, của dòng sông lững lờ trôi khi chiều xuống.

Mất hết.

Không có gì cả.

Chỉ toàn một màn tối. Không có điểm bắt đầu, cũng chẳng có điểm kết thúc.

Nhài Thanh hít vào một hơi, nhưng chỉ thấy cổ họng khô ran, có một cơn nghẹn ngào mắc kẹt nơi cuống lưỡi. 

Thanh không hiểu, không rõ vì sao tim mình lại đập mạnh đến thế, vì sao cả người bỗng dưng bức bối không yên.

Chỉ biết, lòng cô lúc này nặng như chì.

Tội nàng quá.


-Hết chương 7-

Lưu ý: Từ chương sau, số chữ một chương sẽ tăng lên khoảng 5000 từ một chương. Do vậy, thời gian ra chương sẽ lâu hơn ạ. Xin cảm ơn.


Chú thích:

(1): Đào: là cách mà dân đen chợ búa ngày xưa thường dùng để gọi những cô con gái nhà địa chủ, nhà phú ông (những người có tiền, có quyền thời bấy giờ). Tuy nhiên, từ "Đào", "Ả", hay "Ả Đào" này là cách gọi có phần giễu cợt, mỉa mai, chua ngoa, ám chỉ sự kiêu kì, chải chuốt. Một số cách gọi khác tôn trọng hơn: Tiểu thư, Cô Chiêu, Cô...


0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

  • avatar
    Thanh Nguyễn

    "Ăn xin cũng phải có phong cách" vãi thật chứ

  • avatar
    Lan Lyy 🐶🐶

    Ê cái kiểu nhân vật chính một mù một ăn xin này là kết sao này chắc không được hạnh phúc đâu :))))

Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout