Nhài Thanh đứng dựa vách, tay khoanh trước ngực, mắt ngó nghiêng, rồi lặng thinh. Ngọn đèn dầu trên kệ gỗ chao đảo, hắt bóng lên tường méo mó như hình nhân quỷ mị. Cô nhìn Thị Huê. Cô thấy tội nó. Tội một đứa con gái, chưa kịp hưởng mùi đời đã hỏng mất đôi mắt. Cái mắt sáng, là của trời cho, là thứ quý nhất trên mặt người, mất đi rồi thì có khác gì sống trong màn đêm suốt kiếp.
Huỳnh Nhài Thanh cựa mình, toan mở miệng hỏi han lời dịu dịu, nhưng chưa kịp nói, Thị Huê đã lặng lẽ cất lời:
"Tôi nghe cha nói Nhài Thanh cô là Thanh Dở, lúc nào cũng điên điên khùng khùng, lật mặt nhanh, người nhỏ mà khôn lỏi tài lanh, hay đi ăn vạ xin tiền, không có lễ tiết, cũng không vừa mắt một ai, cô còn rất hay chửi… Nhưng bây giờ gặp cô, tôi thấy cha tôi nói không đúng. Cô chỉ là...không có lễ tiết mà thôi."
Bùi Thị Huê vẫn đoan trang, ngồi ngay ngắn lắm. Nàng nói tiếp, nói như thể nàng đã thấu sự đời, hiểu cái xã hội này coi trọng thứ gì:
"Cô thiếu mất lễ tiết, lễ nghi... thiếu đi cái cơ bản nhất của một con người mất rồi.."
Một câu nói, vừa nhẹ nhàng, vừa êm êm, cũng không có ý khinh bỉ dè bỉu.
Nhưng mà…
Nhài Thanh nghe xong, lại tựa như có ai dúi than hồng vào tay. Cô cười khẩy, cái cười méo xệch, đắng như bồ hòn. Rồi Thanh trừng mắt, nhả từng lời, mỗi chữ như một nhát dao xắn vào miếng thịt sống:
"Lễ tiết, lễ nghi..? Thế nào là lễ tiết lễ nghi đây?"
"Cha mày nói phải lắm! Tao có lễ tiết thì cũng chẳng còn sống đến giờ! Tao có tử tế thì cũng chết đói từ năm ngoái! Mày nói tao điên? Đúng đấy, không điên thì bị đời đè chết! Tao khùng? Không khùng thì cơm đâu mà nhét vào miệng? Mày bảo tao lật mặt nhanh? Tao mà chậm, bọn mặt dày khác đè tao xuống đất!"
Nhài Thanh hừm một tiếng:
"Cái loại như tao, đói thì giật, khát thì trộm, ai cản tao, tao cắn!"
"Mày thử quăng tao vào nhà mày đi, để tao mặc lụa là, nằm giường nệm, xem tao có đàng hoàng hơn mày không! Còn ngược lại, mày thử ra đường mà lê lết như tao, xem có giữ được cái lễ cái nghi không? Lễ với nghi cái con khỉ! Bụng tao réo lên từng cơn, ai rảnh mà học?"
Gió nổi lên ào ào.
Nói rồi, cô nhổ phẹt một bãi nước bọt xuống nền đất. Nhài Thanh vung tay, đi qua đi lại với cái giọng hằn học:
"Lễ tiết? Lễ tiết là cái thá gì?! Tao đẻ dưới đất, lớn trong bùn, ai thèm dạy tao lễ tiết..?"
"Chúng mày đẻ ra đã bát vàng đũa ngọc, cơm bưng nước rót, có kẻ hầu người hạ. Tao vừa mở mắt, đã thấy bụng đói meo, thấy người còng lưng nhặt từng hạt gạo rơi, thấy kẻ húp cháo cầm hơi nhường phần ăn cho con. Tao biết đi, đã phải lết ra chợ mà giành rác với lũ chó hoang. Tao biết nói, đã phải học nịnh hót, học cúi lòn (1), học nói sao cho kẻ có tiền nó rủ lòng bố thí. Cơm tao còn chưa no, lễ tiết là cái quái gì đây?"
Nhài Thanh bật cười, nụ cười nhạt như nước ốc. Cô nhếch môi, mắt nheo nheo. Thanh nói với Thị Huê, nhưng hình như cũng không đúng.
Con dở này nó nói, nó hỏi xã hội hay sao?
"Lễ tiết cho ai?"
"Lễ tiết của ai?"
"Lễ tiết để làm gì?!"
"Hả?"
"Để ép kẻ nghèo chúng tao phải rạp người mà sống. Để bắt kẻ dưới phải cúi đầu mà chịu? Để cho chúng mày thấy mình cao quý hơn thiên hạ?"
Nhài Thanh giận. Mà Nhài Thanh càng tủi. Tức đến nghẹn họng, cay đến tận óc. Nhài Thanh càng nghĩ càng tức, càng thấy cái đạo lý ở đời nó bạc. Thị Huê chỉ nói đúng một câu đó mà cô đã thấy uất:
"Chúng mày có tiền, có quyền, chúng mày mắng một câu, là đạo lý. Tao không tiền, không thế, tao mắng một câu, thành vô học. Chúng mày vung tay đánh người, là răn dạy. Tao vung tay phản kháng, là mất dạy. Chúng mày vênh mặt, ngồi chễm chệ, là nề nếp gia phong. Tao đứng thẳng, không chịu cúi đầu, là láo lếu, mất dạy, bất trị!"
Nhài Thanh đang đi qua đi lại cũng phải dừng chân, cảm xúc dâng lên, cô quay phắt lại, bàn tay chỉ thẳng vào mặt Bùi Thị Huê, quát lớn:
"Vậy rốt cuộc, cái lễ tiết ấy, là thứ để giữ cái gì? Giữ đạo nghĩa à...Hay giữ cái trật tự chó má này?"
Nhài Thanh cảm thấy buồn cười, cô đưa tay quệt quệt vệt bùn trên mặt. Mắt cô trợn lên rồi lại thả xuống. Dường như là uất ức. Nhài Thanh nói nhạt, mà ý nhạt sao mà nghe sâu quá:
"Mày nói tao thiếu đi cái cơ bản để làm người ư? Mày sai rồi! Ừ sai lắm.."
"Tao sống ở đây, sống ở kia hay sống lê ở bất cứ đâu đi chăng nữa. Cũng chẳng có ai coi tao là người cả. Chúng nó có coi tao là người đâu? Hở tiểu thư Thị Huê!"
Nhài Thanh nghiến răng ken két, cô nuốt nước bọc, hậm hực mãi, cay đắng mãi mới thở hắt ra một hơi:
"Chúng nó coi con Huỳnh Nhài Thanh này...,
-Còn chẳng bằng một con chó!"
Đôi tâm mi của Thị Huê khẽ giật giật. Hai bàn tay đặt lên nhau để ở trước bụng thoáng miết nhẹ. Rất nhẹ thôi.
Nhài Thanh cười.
Cô nói một tràng, nói đến khi cổ họng khô khốc, nói đến khi bàn tay siết chặt. Nhài Thanh ngẩng đầu, chờ Thị Huê phản bác. Chờ Thị Huê hiền thục học chữ Thánh Hiền nói lí lẽ lại.
Chờ nàng giận, chờ nàng mắng, chờ nàng cãi.
Nhưng không.
Thị Huê im lặng. Thị Huê ngồi yên. Nàng không phản bác, không tranh cãi, không tức giận.
Cái kiểu thản nhiên đến gai người này, càng khiến Nhài Thanh chướng mắt. Cô hít vào một hơi, toan xổ tiếp một tràng, nhưng vừa nghiêng mặt lại chạm vào đôi mắt kia….
Thanh bỗng khựng lại.
Mắt nàng...
Không động.
Đồng tử nàng đen kịt, sâu hoắm, không có một tia sáng.
Nàng mù.
Cô quên mất. Nhìn nàng như vậy, cô không nghĩ là nàng mù. Nàng bình thản quá, nên cô nhất thời quên mất...
Nhài Thanh cứng họng. Mãi một lúc lâu sau, mới buột miệng hỏi, giọng khàn khàn vì khi nãy nói lắm quá:
"Mắt mày… hỏng thật à? Không phải giả vờ chăng?" Câu hỏi lửng lơ chuyển chủ đề tan vào hơi lạnh giữa đêm. Thị Huê vẫn không giật mình, không bất mãn, chỉ nghiêng đầu, giọng nhẹ như khói vương đầu ngọn cỏ: “Ừ.” Rồi nàng cười. Cười nhàn nhạt, cười như gió lướt trên mặt hồ: "Mẹ tôi mất… Tôi thương nhớ mẹ, khóc đêm ngày, rồi mù thôi."
Nàng nói nghe đơn giản như chuyện bâng quơ, mà Nhài Thanh nghe xong bỗng rờn rợn sau lưng. Thanh vò đầu, vò đến mức tóc bung rối như tổ quạ. Mãi lâu sau, cô mới nhớ ra. Khoảng hơn tuần trước, cô có lê la lên làng trên ăn xin. Khi đó nghe người ta kháo nhau, dưới làng Đông Tụ có đám tang lớn.
Nhưng mà khổ nỗi…
Trên làng trên bấy giờ có mấy đám cỗ. Mà tất nhiên, cỗ linh đình thì ngon hơn cúng vong. Cô ở lì trên ấy, ăn đến bốn năm mâm, no đến trướng cả bụng, thở còn chẳng nổi. Khi ấy, cô nghĩ mình lời to. Mà lời thật chứ chẳng bịp gì.
Bây giờ mới biết…
Hóa ra cái đám tang đó là của bà Kiệu, vợ ông Tộp, mẹ của Thị Huê.
Hóa ra...
Mẹ nàng đã chôn cỏ xanh.
Nhài Thanh ngậm miệng lại, một chữ cũng không bật ra nữa. Gió rít qua mái tranh, thổi lật mép áo cô. Nhài Thanh thấy lạnh. Mà không biết là lạnh gió, hay lạnh lòng nữa.
Bất thình lình, Thị Huê cất giọng. Giọng nàng chẳng cao, chẳng thấp, thong thả mà buông ra, cứ như từng chữ đều được nắn nót, nghĩ suy kỹ lưỡng trước khi rời khỏi miệng:
"Xin lỗi…" Lời nhẹ bẫng, nhưng giữa vườn không vắng vẻ thế này, lại nghe ra một tầng trầm nặng:
"Tôi chưa từng hay rằng, dân ta lại có người sống khổ đến độ này. Tôi cũng không nghĩ, những phép tắc, lễ nghi ấy sẽ làm bao người chịu thiệt.."
Một câu chẳng dài, chẳng ngắn, nhưng rành rành là một lời xin lỗi.
Nhài Thanh đứng chống nạnh một tay cũng phải khựng đột ngột. Cô sững người, đôi mắt tròn xoe, vẻ mặt như thể vừa nghe phải một chuyện hoang đường.
Xin lỗi? Người giàu…cũng biết xin lỗi ư?
Từ tấm bé đến giờ, cô chưa từng nghe thấy chuyện này bao giờ. Nhà giàu thì cứ hưởng, kẻ nghèo thì cứ chịu, đó không phải là quy luật của đời này hay sao? Quan phủ sai, kẻ bị đánh vẫn là dân. Chủ nhà quỵt tiền, thằng làm thuê chỉ có nước cúi đầu. Nhà giàu sống trên cao, kẻ nghèo dưới đất nhẫn nhịn, cha truyền con nối chẳng ai bàn cãi. Lệ đời đã sẵn, kẻ nào sinh ra ở đâu thì cứ thế mà ở đó, chẳng ai thắc mắc, chẳng ai dám đòi hơn.
Vậy mà nay, một tiểu thư nhà họ Bùi, lớn lên trong vàng son lụa là, lại chịu mở miệng nói hai chữ này với một con bé đầu đường xó chợ?
Hay chỉ có mỗi Thị Huê là khác? Nhài Thanh không chắc, nhưng lòng bỗng dậy lên một cảm giác khó tả. Cô nuốt khan một cái, rồi cúi đầu nhìn xuống hai bàn tay sần sùi của mình.
Nghĩ cho cùng, chuyện này nào có phải lỗi riêng của cô, cũng chẳng phải lỗi của một mình Thị Huê. Là lỗi của cả cái xã hội này. Một xã hội đã nát bấy từ lâu, nơi kẻ có thì cứ có, kẻ không thì cứ không, đứa mạnh thì hưởng, đứa yếu thì gánh. Đời cha đã thế, đời con vẫn vậy, có khác gì đâu?
Mà chính cô cũng chẳng phải thánh thần, lời khi nãy chẳng qua vì tức quá mà văng ra thôi, chứ nào có mong tiểu thư nhà người ta phải chịu khó xử thế này. Càng nghĩ, Thanh càng thấy mặt mình nóng bừng. Chắc đỏ lắm rồi.
Nhài Thanh hắng giọng một cái, rồi gãi đầu, nói lắp bắp:
"Ờ…ờ…ừ, đâu phải lỗi của mày. Tao cũng chưa thấy mày chèn ép ai bao giờ. Ờ, cái nãy là tao tức tao nói điên nói ngộ thôi."
Nhài Thanh nói xong thấy ngượng quá, lại vội chữa tiếp:
"Từ bé sinh ra tao đã ngộ ngộ như vậy rồi, thỉnh thoảng lên cơn. Mày coi như chưa nghe gì đi."
Thị Huê cười khẽ. Một nụ cười nhẹ, nhưng lại có gì đó rất nặng nề. Nàng nâng nhẹ bàn tay lên, đầu ngón tay thoáng chạm vào vạt áo của mình, như thể muốn chỉnh lại nhưng rồi lại thôi. Nàng nói:
"Không làm cũng chẳng có nghĩa là vô can." Giọng nàng nhỏ đi một chút, có phần bâng quơ: "Từ nhỏ, tôi đã có sẵn trong tay mọi thứ. Mà những thứ đó…có lẽ đều từ ai đó, ở đâu đó, đã nhường lại..."
Nàng im lặng một chút. Thật lâu, nàng hỏi Nhài Thanh:
"Phải vậy không, Nhài Thanh?"
Một cơn gió hiu hắt thổi qua. Nhài Thanh chớp mắt, lòng bỗng dưng có chút hoang mang. Cô chẳng phải đứa hay để tâm mấy chuyện cao xa. Nhưng cái cách tiểu thư Thị Huê nói, nghe sao mà chua xót. Có điều, đó lại là sự thật. Những gì mấy vị tiểu thư quyền quý hưởng được, chung quy lại cũng đều là cha mẹ tía má bọn nó bóc lột, chèn ép lũ dân đen. Nhài Thanh thở hắt ra, rồi vung tay phẩy phẩy, từ chối trả lời câu hỏi của Thị Huê:
"Thôi, khóc xong rồi thì về đi. Lão Tộp không thấy mày, thể nào cũng chạy đôn chạy đáo đi tìm, làm rộn lên hết."
Vừa dứt câu, cô bỗng sực nhớ ra một chuyện:
"À mà khoan…" Cô liếc sang, nhíu mày nhìn Thị Huê: "Mày không nhìn thấy gì, thế bầy tớ của mày đâu? Đứng góc nào canh hả? Hay để tao làm phúc đi gọi hộ cho?"
Vừa nói, cô vừa nheo mắt nhìn quanh. Nhưng vườn trống mênh mông, ngoại trừ hai người, chẳng có lấy một bóng ai. Đúng lúc ấy, trong đầu cô như có ánh chớp lướt qua. Nhài Thanh sực nhớ lại lời Thị Huê vừa nói khi nãy— "Là cha cho người đưa tôi đến đây…"
Nhài Thanh ô một tiếng, mắt trợn trừng: "Á à, tao quên. Nãy mày nói lão Tộp đưa mày đến đây? Vậy là lão Tộp cho người đem mày đến đây thật. Lão quý mày như ngọc như ngà, vậy mà lại để mày lủi thủi một mình giữa chốn đồng hoang vườn rậm thế này?"
Cô tặc lưỡi, chống tay lên hông: "Chậc, hay là mày lười học lười hành, làm lão giận rồi hả?"
Thị Huê bật cười. Một tiếng cười khẽ khàng, nhưng lại có chút mỏi mệt giấu trong đó. Nàng nhẹ nhàng xoay người, gương mặt hướng về khoảng không phía trước, ánh mắt mịt mờ lay động. Câu hỏi khi nãy, Nhài Thanh không có trả lời nhưng nàng cũng sớm biết đáp án. Chẳng qua...nàng chỉ là muốn nghe thôi. Thị Huê thở dài. Chầm chậm, nàng buông lời:
"Có nguyện nghe tôi tỏ đôi câu chăng? Lúc này đây, so với cô… tôi cũng chẳng khác là bao đâu.."
Nhài Thanh tất nhiên là muốn nghe. Lòng hiếu kỳ đã đành, nhưng quan trọng hơn là cô cũng chẳng có cái thá gì phải làm. Việc trọng đại nhất trong ngày là ăn uống cũng đã xong, bây giờ ngoài chuyện ngủ nghê nghỉ ngơi nghĩ kế moi tiền mai sau, thì còn gì đáng bận tâm?
Huống hồ, bấy lâu nay cô chỉ có thể ngắm Thị Huê từ xa, chưa từng có cơ hội ngồi gần như thế này. Mà lại còn sát nút nữa chứ. Nếu đã thế thì chẳng phải nên tranh thủ ngắm cho đã mắt hay sao?
Nghĩ vậy, Nhài Thanh liền nói:
"Có người chịu ngồi với Thanh Dở tao đã là quý lắm rồi, huống hồ còn tâm sự. Lại còn là một tiểu thư xinh đẹp như mày nữa chứ."
Nói đến đây, cô gãi gãi đầu, bật cười. Cái mặt đỏ ửng lên, chẳng rõ vì sao:
"Nói chớ… mấy bận trước, cứ lúc nào tao ghé qua làng Đông Tụ, thế nào cũng rình ngắm mày. Ai biểu mày đẹp đến mức nhìn cả ngày cũng không chán chứ?"
Thị Huê lắc đầu, chậm rãi nói:
"Đẹp đẽ gì cho cam, tôi cũng chỉ là phận người như bao kẻ khác. Chẳng qua giữa một đám con gái suốt ngày lấm lem bùn đất, lại có kẻ mặt trắng tay ngà, thì người ta tự khắc xúm vào khen vậy thôi."
Nhài Thanh không lật tẩy sự khiêm tốn của Thị Huê. Ngược lại, cô bất giác cảm thấy cái con người này...
Sao mà cái gì cũng tốt hết vậy. Đã đẹp người, lại còn đẹp nết nữa. Người ta có câu: "Cái nết đánh chết cái đẹp." Hoặc như Dở cô thì "Cái đẹp đánh xẹp cái nết." Mà..Thị Huê có tất cả hay sao ấy.
Nhài Thanh thầm thở dài. Đứng ngay bên cạnh người con gái này. Là một tiểu thư đoan trang đích thực. Cô thấy ganh tị...thấy có một chút gì đó gọi là tủi thân.
Nhài Thanh ngửa cổ nhìn vầng trăng qua mái rạ lỗ chỗ hở, rơm mục theo gió rơi lả tả xuống nền đất ẩm, lẫn vào bụi tro cũ kỹ vương vãi. Khoé miệng cô hơi nhếch lên.
Đã lâu lắm rồi, cô mới có cảm giác giống con người.
Nhài Thanh nghiến răng. Một bên chân đá đá xuống mặt đất rất nhẹ. Cô mím môi..
"Ừ...Mày sinh ra vốn dĩ là người, chứ có phải là chó của ai đâu?" Nhài Thanh nói trong bụng như vậy.
Bốn phía tối mịt, chỉ có chút ánh trăng hạ tuần bạc nhạt len qua khe hở, trải xuống nền đất những vệt sáng lờ mờ, đứt quãng như vệt cào của móng vuốt nào đó hằn lên. Ngoài kia, ngọn chuối gầy guộc quặn mình trong gió, tàu lá rách bươm vỗ vào nhau phành phạch. Lũ côn trùng cũng nín bặt, chỉ còn tiếng gió xuyên qua bờ bụi, lùa qua mái lều, tạo thành một chuỗi âm thanh buồn rầu.
Nhài Thanh đưa tay vỗ vỗ mặt, nghe ra cả tiếng bốp bốp cơ. Cô tiến tới giường tre rồi ngồi xổm xuống, một chân co, một chân duỗi, vươn tay vào bọc áo. Đám vải sờn rách vướng vào đầu ngón tay, nhưng cô cứ lục lọi, rồi rút ra một túi bóng dúm dó, cầm gọn trong lòng bàn tay. Thanh đưa lên ngang mặt, im lặng một lát, đoạn ngoác miệng cười khanh khách như thường ngày:
"Thôi, mày ăn chuối nướng không! Tao cất trong người từ chiều, vẫn còn hơi ấm đây. Chẳng phải cao lương mỹ vị, chỉ là món quê mùa thôi… nhưng mà tao dám chắc, cắn một miếng là thấy ngọt tận ruột gan. Vừa ăn, vừa kể cho tao nghe chuyện của mày được không?"
Nhài Thanh cúi xuống giở bọc túi bóng, đôi mắt liền sáng lên: "Ê! Là chuối đôi đấy. Quá đã luôn." Nói xong, cô cẩn thận tách đôi quả chuối nướng ra, thổi phù phù mấy cái rồi dúi vào tay Thị Huê.
Thị Huê không đáp, chỉ lặng lẽ dựa theo động tác của Nhài Thanh mà đưa tay đón lấy. Những ngón tay gầy guộc siết chặt lớp rám cháy, cảm nhận chút hơi nóng sót lại như nắm lấy chút tàn tro của một đống lửa cũ. Nhưng nàng chưa ăn, chỉ giữ trong tay, mặc cho mùi thơm dìu dịu của chuối chín trộn với mùi khói ám lan lên cánh mũi.
Gió vẫn rít qua mái lều, lay động manh chiếu rách, tạo thành những tiếng sột soạt khô khốc. Bóng ngọn chuối ngoài bờ nghiêng nghiêng in xuống nền đất, run rẩy trong ánh trăng yếu ớt.
Thị Huê ngồi co mình, đầu hơi nghiêng, như đang lắng nghe âm thanh của gió mà nhập vào những dòng ký ức cũ.
Nhài Thanh ngồi bên, lặng im như một cái bóng, không dám chen ngang. Cô biết, câu chuyện sắp được kể không chỉ là chuyện của một người mẹ, mà còn là chuyện của cả một thời vang bóng, chuyện của một mối tình rực rỡ rồi hóa thành tro tàn, chuyện của những tháng năm yêu thương tha thiết rồi lại trầm luân trong oán hận...
Năm ấy, mẹ nàng, bà Kiệu, hay nàng Kiệu - Trần Thị Thanh Kiệu – là giai nhân bậc nhất trong vùng.
Người ta ví nàng Thanh Kiệu như hoa lê giữa trời xuân, nhưng nếu chỉ thế thì chưa đủ. Nhan sắc nàng không phải thứ đẹp mong manh, sớm nở tối tàn, mà vững vàng như trăng sáng trên trời cao, càng nhìn càng cuốn hút, khiến người ta vừa trầm trồ, vừa lặng lẽ mà thương. Da nàng Kiệu trắng như tuyết đầu mùa, mịn màng như vỏ trứng gà bóc, lại ánh lên sắc hồng như có sương sớm đọng trên cánh đào. Đôi mắt nàng tròn xoe, sâu thẳm, khi nhìn ai đều ánh lên sự dịu dàng, tựa mặt hồ phẳng lặng những ngày thu. Mỗi khi Kiệu cúi mặt, hàng mi dài rủ bóng lên gò má, nét thẹn thùng ấy lại càng làm tăng thêm vẻ e ấp của một bậc khuê nữ đoan trang.
Đôi môi Thanh Kiệu đỏ thắm, chỉ cần mỉm cười nhẹ thôi cũng khiến lòng người ngây dại. Nhưng đẹp nhất vẫn là mái tóc. Mái tóc ấy đen tuyền, dài đến tận thắt lưng, mỗi khi buông xuống lại suôn mượt như dòng suối chảy trong đêm. Những ngày nàng búi cao, đôi ba sợi nghịch ngợm rủ xuống bên thái dương, càng làm tôn lên nét mặn mà quý phái. Người trong vùng, mỗi lần nhắc đến Thanh Kiệu, đều xuýt xoa mà rằng:
"Không chỉ đẹp mà còn có khí chất, vừa dịu dàng như nước, vừa kiên cường như tùng bách. Cô nương ấy, nhất định phải là chính thất của bậc anh hùng."
Bởi vậy, biết bao nhà quyền quý sai mai mối đến dạm hỏi, nhưng nàng đều khéo léo từ chối. Người ta nói, trong mắt nàng Kiệu khi ấy, chưa từng có bóng hình ai, hoặc giả, nàng vẫn đang chờ đợi một đoạn nhân duyên mà trời định.
Và rồi, Bùi Văn Tộp xuất hiện.
Hắn là ai? Hắn không phải bậc anh hùng mà người ta ngóng trông, cũng chẳng phải bậc mỹ nam khiến người gặp là nhớ, nhìn là thương. Hắn chỉ đơn giản là một người đàn ông có dáng vẻ ưa nhìn, không thô kệch nhưng cũng chẳng hào hoa. Khuôn mặt hắn mang vẻ trung dung, đường nét không có gì quá nổi bật, chỉ có đôi ánh mắt lại sâu, đen láy, như lúc nào cũng ẩn giấu điều khó đoán.
Miệng hắn ít khi cười, đôi môi mỏng mím lại thành một đường ngay cả khi không nói vẫn tạo ra một cảm giác vừa trầm tĩnh, vừa xa cách. Trán hắn rộng, không hẳn là dấu hiệu của bậc hiền tài, nhưng lại toát ra vẻ từng trải, như thể đã nhìn thấu sự đời. Làn da không quá ngăm, cũng chẳng trắng trẻo, chỉ có nét phong trần của kẻ từng bôn ba tính toán. Khi Văn Tộp đứng giữa đám đông, hắn không phải kẻ nổi bật nhất, nhưng là kẻ người ta không thể dễ dàng bỏ qua, bởi trong dáng vẻ điềm nhiên ấy luôn lẩn khuất một nét gì đó thâm trầm lắm.
Bùi Văn Tộp là con trai duy nhất của nhà họ Bùi, một gia tộc giàu có bậc nhất làng Đông Tụ Cha mẹ mất sớm, hắn một tay quán xuyến gia nghiệp, đất đai ruộng vườn trải dài mấy huyện, vàng bạc đầy kho, quyền thế vững như thành đồng. Người ta nói hắn mưu sâu kế hiểm, là kẻ khéo léo, giỏi nhìn xa trông rộng.
Cả một vùng mênh mông, bao nhiêu đứa con gái vây quanh hắn, hắn chẳng màng ai, chỉ một lòng một dạ muốn rước nàng Thanh Kiệu về làm vợ. Bởi lẽ Văn Tộp đắm đuối người con gái duy nhất này của ông đồ cuối làng ngay từ lần gặp đầu tiên ở hội xuân. Chỉ một nụ cười e thẹn, một ánh mắt chớp nhẹ, một tà áo mỏng bay lên...hắn đã biết thế nào là thương.
Phú Tộp mê nàng Kiệu đến độ quên ăn quên ngủ. Hắn không phải kẻ vụng đường tán tỉnh, nhưng đứng trước nàng Kiệu, bao nhiêu mưu lược bỗng hóa ra ngây dại. Trong vùng, ai cũng biết Phú Tộp là kẻ si mê đến mức buồn cười, mà lại chẳng ai nỡ cười hắn. Bởi cái si mê ấy không phải thứ hời hợt của kẻ lắm tiền nhiều của muốn lấy mỹ nhân làm vật trang sức, mà là thứ tình sâu như nước, dai dẳng như tơ trời, một khi đã vương thì chẳng thể nào dứt ra được.
Hắn tin rằng Thanh Kiệu là định mệnh của hắn, là tiếng sét ái tình. Phú Tộp cũng chắc mẩn chỉ có hắn mới xứng với nàng.
Và cái cách phú Tộp theo đuổi người con gái đẹp nhất trong vùng, vừa chân thành, lại vừa buồn cười.
Người ta kể, ngày đó, hắn thuê hẳn một gánh hát đến ngay trước cổng nhà nàng Kiệu. Nhưng không phải hát chèo, cũng chẳng phải hát tuồng, mà diễn nguyên một vở kịch tình ái do chính hắn bỏ tiền thuê người viết. Vở diễn kể về một chàng phú hộ si mê nàng tiểu thư khuê các, bất chấp gia thế chênh lệch, bất chấp bao lời bàn tán, vẫn quyết tâm theo đuổi bằng cả tấm lòng. Người người kéo đến xem đông nghịt, vừa xem vừa cười. Họ không cười vì vở kịch dở, mà cười vì ai cũng hiểu, vở kịch ấy chẳng qua là chính câu chuyện của Phú Tộp và tiểu thư Trần nhà gia giáo.
Nhưng Thanh Kiệu vẫn điềm nhiên như không, chỉ đứng bên song cửa, lặng lẽ nhìn xuống đám đông, rồi lại khẽ khàng buông rèm, chẳng để lộ một chút phản ứng nào.
Hắn không nản. Hắn bày trò khác.
Một ngày nọ, gia nhân nhà tiểu thư Kiệu bất ngờ nhận được một món quà kỳ lạ từ phủ Phú Tộp: một cây lựu lớn trĩu quả, rễ vẫn còn tươi, tán rộng che rợp cả một góc sân. Trên cây có buộc một tấm lụa đào, bên trên đề dòng chữ ngay ngắn:
"Cây lựu này mỗi ngày ta đều tưới nước, chăm bón, nhìn nó lớn lên như lòng ta ngày càng nặng tình với nàng."
Nàng Kiệu nhìn cây lựu, chỉ khẽ cười, rồi lặng lẽ quay đi. Nhưng người trong nhà ai cũng thấy, lần đầu tiên, đôi má nàng thoáng ửng hồng.
Phú Tộp nghe loáng thoáng như vậy càng phấn khích, quyết tâm dâng lên mười phần. Có lần, hắn nấp sau bụi duối đầu làng chỉ để nhìn Thanh Kiệu đi chợ. Hắn đứng từ xa, thấy nàng trong bộ áo tứ thân màu thiên thanh, tóc vấn gọn mà chẳng giấu nổi vài lọn rủ xuống bên má, gương mặt dịu dàng mà dáng đi khoan thai như nước chảy. Nhìn một hồi, hắn quên cả việc mình đang nấp, cứ thế đứng trơ ra giữa đường mà ngẩn ngơ. Đến khi một ông lão đi qua vỗ vai, hắn mới giật mình, lúng túng cười chữa:
"Chà, con chim sẻ nâu đậu trên cành mận, ngỡ ngàng nhìn thấy hoa mai nở giữa trời đông."
Lão già cười hề hề, nhổ một bãi nước trầu xuống đất, lắc đầu:
"Thằng này, si đến lú lẫn rồi."
Mà nào đã hết. Một hôm, hắn ra chợ huyện, thấy nàng Kiệu đứng lựa trâm cài đầu. Hắn nháy mắt với lão bán hàng, vỗ mạnh vào chiếc tráp gỗ, cất giọng sang sảng:
"Lão gia, trâm này bán thế nào?"
Lão già vừa ngước lên, hắn đã chỉ ngay chiếc trâm phượng cẩn xà cừ đắt nhất sạp. Người xung quanh ngạc nhiên, cứ ngỡ hắn mua cho ai, nhưng hắn quay sang cười cợt, nhìn nàng Kiệu mà rằng:
"Ta muốn mua về cài lên đầu… con trâu nhà ta. Nhưng nghĩ lại, con trâu chẳng biết làm dáng, hay nàng nhận hộ ta đi?"
Nàng Kiệu chỉ mỉm cười, lắc đầu không nhận, còn mấy cô nương xung quanh thì cười ngặt nghẽo, trêu hắn là phú hộ mà tán gái vụng còn hơn cả thằng chăn trâu. Hắn không lấy làm phiền, chỉ đứng gãi đầu cười hề hề, rồi lẳng lặng gửi lại trâm trên sạp, dặn nhỏ ông bán hàng:
"Nàng có quay lại thì cứ nói là quà ta tặng, không lấy tiền."
Văn Tộp tương tư nàng Kiệu đến mất ăn mất ngủ. Hắn không rành chữ nghĩa, nhưng khi si mê đã ngấm vào tim thì con người ta chẳng nề hà khó nhọc. Một tối nọ, hắn sai thằng hầu lẻn sang nhà nàng, nhét vào khe cửa một mảnh giấy nhỏ, trên đó là những nét chữ nguệch ngoạc, méo mó như vết gà bới trên nền đất sau cơn mưa. Hắn dốc lòng viết từng chữ, nghiêng đầu nghiêng cổ, lẩm nhẩm như trẻ con tập đồ:
"Thân gửi nàng Kiệu. Trăng hôm nay tròn, ta nhìn mà nghĩ đến nàng. Nếu nàng cũng nhìn trăng, thì tức là hai ta cùng ngắm chung một chốn. Nếu mai trăng khuyết, lòng ta cũng sẽ khuyết một nửa vì nhớ nàng."
Hắn đọc đi đọc lại, gật gù đắc ý, tưởng câu chữ mỹ miều lắm. Văn Tộp nghĩ, với tài văn chương này, hẳn nàng Kiệu đọc xong sẽ động lòng, khuê phòng thao thức suốt đêm, để rồi mai gặp hắn mà hai má đỏ ửng như cánh đào xuân. Nhưng hắn không ngờ, số phận mảnh thư ấy lại chẳng êm đềm như lòng hắn tưởng.
Sáng hôm sau, một cơn gió mạnh từ đâu thổi qua, lách vào khe cửa, cuốn phăng mảnh giấy ra ngoài. Nó bay là đà như chiếc lá lìa cành, đáp xuống giữa đầu ngõ, đúng nơi đám trẻ con đang nô đùa. Một thằng nhóc tinh nghịch chụp lấy, mở ra đọc, bập bẹ theo từng nét chữ méo mó: "Thân...tờ tân, gửi... nàng...làn Kiệu... Trăng hôm nay tròn... Ta nhìn..."
Chưa đọc hết, nó đã cười khanh khách, truyền tay lũ bạn. Cả bọn rú lên thích thú, mỗi đứa bắt chước giọng điệu sướt mướt đọc lại câu nọ câu kia, cười đến đỏ mặt tía tai. Tin tức lan nhanh như lửa gặp gió, chẳng mấy chốc cả xóm trên làng dưới đều xì xào, kẻ cười kẻ chọc, kẻ xoa cằm tấm tắc:
"Phú hộ mà viết văn thế này thì cũng đến khổ!"
Lão đồ Nghiêm, cha của Thị Huê, sáng ấy đang thong dong bước qua đầu ngõ. Thấy lũ trẻ xôn xao, lão nhíu mày, tiến lại cầm lấy mảnh giấy, chỉnh lại cặp kính, đọc một lượt rồi trầm ngâm. Một lát sau, lão lắc đầu phán một câu chát chúa. Không phải là ý nghĩa của nó xấu xa, mà là nét chữ sai quá nhiều, rất vụng.
"Làm phú hộ mà viết thế này thì hỏng! Về học lại đi đã." Lão đồ Nghiêm răn.
Tin này đến tai Phú Tộp ngay sau đó. Thay vì xấu hổ, hắn lại càng lấy làm thích thú. Đã bao lâu nay hắn muốn lấy lòng lão đồ Nghiêm, nhưng chẳng có cớ mà tiếp cận. Nay lại có dịp trời ban, chẳng dại gì mà không nắm lấy!
Thế là sáng hôm sau, hắn khăn áo chỉnh tề, đội khăn xếp, mang theo nén bạc đến nhà lão đồ, nghiêm túc xin học. Lão Nghiêm tuy có phần chê hắn chậm, nhưng thấy hắn thành tâm thì cũng gật đầu nhận lời. Hắn cứ thế học ngày học đêm, tay lăm lăm bút, miệng ê a đọc sách, mắt thì không quên trộm liếc về phía Thanh Kiệu mỗi khi nàng bước ngang qua. Một công đôi việc, vừa có cơ hội học chữ, vừa có thể lấy lòng cha nàng.
"Văn chương lai láng rồi sẽ đốn tim nàng Kiệu!" – hắn nghĩ, hý hửng nắm chặt cây bút, vẽ lên trang giấy những nét chữ dẫu còn xiêu vẹo, nhưng chứa chan cả một tấm lòng si mê.
Những chiều hôm khác, Văn Tộp vẫn lò dò đến, lần này chẳng gửi thư nữa, mà chỉ đứng từ xa, nhặt một viên sỏi ném khẽ vào sân. Nàng Kiệu trong nhà dường như cũng biết ai vừa đến, nhưng vẫn giữ vẻ thản nhiên như chưa hay biết điều gì. Hắn cứ vậy, hết lần này đến lần khác, chẳng bao giờ bỏ cuộc.
Đến mùa hội xuân, hắn lại bày một trò tán tỉnh. Biết nàng Kiệu thích những thứ tao nhã, hắn bèn mang con gà chọi quý nhất chuồng, lông đỏ mượt như lửa, cựa sắc như dao, dắt theo đến hội làng. Nhưng thay vì đem ra chọi gà như bao người khác, hắn lại ngồi xổm ngay bãi đất trống, tay ôm gà mà thủ thỉ:
"Này, mày mà được nàng ấy nhận nuôi thì là phước ba đời. Gà thiêng, gà cưng, gà quý. Tao nuôi mày từ bé, bây giờ là lúc mày đền ơn. Nàng nhận, khi ấy đổi hồn cho tao nghe chưa? Tao hồn gà, cho mày hồn người luôn."
Mấy người đi qua không khỏi phì cười với nước đi này của cậu Văn Tộp. Văn Tộp chẳng quan tâm, hắn ôm gà quý ngồi dưới gốc cây me. Đến khi nàng Kiệu cùng người nhà ngang qua, hắn lập tức đứng dậy, ôm con gà đến, cất giọng sang sảng:
"Nàng xem, gà này lông mượt như nhung, cựa sắc như dao, gan dạ hơn cả đám trai làng! Nếu nàng nhận nuôi, nó nhất định chỉ gáy gọi tên nàng, không để mắt đến gà mái nào khác."
Mấy bà trong làng nghe thế cười rộ, có người còn hùa theo: "Gà còn chung tình hơn người nha!"
Nàng Kiệu chỉ nghiêng đầu ngắm con gà một lát, rồi khẽ cười, bảo nhỏ:
"Nhưng ta không biết nuôi gà chọi."
Phú Tộp nghe thế, tưởng nàng có ý nhận, vội vàng đáp ngay:
"Không sao! Ta nuôi giùm nàng, nhưng gà vẫn tính là của nàng! Như thế ngày ngày ta liền có cớ đến thăm.., à không, không, có cớ để báo nàng biết nó lớn đến đâu!"
Thanh Kiệu chỉ khẽ cười trước mặt hắn nhưng vẫn không nhận. Mà Văn Tộp có nào cảm thấy buồn, hắn thấy vui chứ. Vui đến muốn điên. Bởi nàng ấy lần đầu tiên chịu cười với hắn.
Nhưng rồi, một hôm, cậu Văn Tộp không bày trò nữa. Hắn sai người làm một chiếc khung cửi gỗ mun, khắc lên đó câu thơ:
"Sợi tơ xe mối duyên lành,
Dệt bao nhiêu sợi, thương nàng bấy nhiêu."
Chiếc khung ấy, hắn chỉ hi vọng mỗi khi nàng Kiệu ngồi dệt vải, đều gợi lên một ý niệm mơ hồ về một bóng dáng si tình nào đó, ngày ngày vẫn đứng chờ ngoài ngõ. Nhưng, chiếc khung cửi bị gửi trả.
Lại lần khác, Bùi Văn Tộp cất công mua một đôi giày lụa thêu chỉ vàng ở tận kinh thành, vốn là thứ chỉ nhà quan lại mới dám mang. Nhưng hắn không đường đường chính chính đem tặng, mà sai một đám trẻ con đem đến cổng nhà nàng Kiệu, đặt ngay thềm rồi chạy biến đi. Khi nàng Kiệu bước ra, chỉ thấy một đôi giày lạ, mà không biết ai gửi. Gia nhân trong nhà xôn xao, đoán già đoán non, có kẻ chặc lưỡi cười thưa:
“Không chừng là của cậu Phú Tộp. Cái trò tán tỉnh quái gở này, ngoài cậu ấy ra thì ai mà nghĩ ra được thưa cô.."
Lần ấy, Thanh Kiệu không phản ứng, không nhận, lần nữa sai người đem đôi giày ấy trả lại, còn dặn thêm:
“Hãy nói với cậu ấy, lòng ta không phải thứ có thể mua được bằng những thứ đắt tiền.”
Nhưng Phú Tộp lại chưa hiểu ý nàng.
Hắn vẫn tặng quà, nấp rình, ngày ngày bày trò tán tỉnh. Rốt cuộc mới nhận ra là không ăn thua. Hắn ngồi nghĩ mãi, cuối cùng cũng nhận ra rằng, nếu cứ dùng tiền của, e rằng Thanh Kiệu sẽ càng xa lánh mình. Hắn bèn nghĩ cách khác—làm thơ! Hắn học bao nhiêu chữ nghĩa từ cha nàng cơ mà, lí nào lại không làm được?
Thế là, Văn Tộp thức suốt một đêm dưới ánh đèn, vừa nhấp rượu vừa gãi đầu suy nghĩ, đến khi trời gần sáng mới viết xong hết tâm tư của lòng mình. Hắn sai người chép lên tấm lụa đào, rắc thêm chút hương sen rồi đem đến nhà nàng Kiệu.
Bốn câu thơ to đùng đập vào mắt:
"Mây trắng lững lờ trôi cuối nẻo,
Nước sông chảy xiết cuốn tình ai.
Nếu duyên chẳng thể nên đôi lứa,
Chỉ mong như bóng với hình hoài."
Nàng Kiệu cầm lấy mảnh lụa, đọc xong mặt trước liền cẩn thận lật lại mặt sau. Kiểm tra cẩn thận, tỉ mỉ mới phát hiện ra một tờ giấy kẹp ở bên trong. Nàng chỉ im lặng. Không ai biết Thanh Kiệu nghĩ gì, chỉ thấy ngón tay nàng vuốt nhẹ lên chữ viết, ánh mắt thoáng chút mơ hồ.
Bài thơ đằng sau ấy có tựa đề năm chữ: "Kiệu làm vợ tôi đi" - câu văn chẳng xa hoa lắm, nghe có chút buồn cười. Giống hệt nghĩ gì viết nấy vậy. Nội dung bài thơ được con bé hầu đọc lớn:
"Kiệu ơi, trăng sáng lầu hoa,
Ta xin một mối duyên nhà cùng nhau.
Rước nàng kiệu đỏ hoa cau,
Mâm vàng tráp bạc, trầu cau kết tình.
Kiệu ơi, gió thoảng sân đình,
Lòng ta một mảnh chung tình với ai.
Về đây áo lụa trải dài,
Nhà cao cửa rộng, trăng soi song thềm.
Trọn đời giữ lấy êm đềm,
Nâng niu tiếng nói, êm rèm gió qua
Chẳng để nước mắt rơi xa
Chỉ mong má thắm như vừa xuân sang.
Kiệu ơi, gật nhẹ lời vàng,
Ta xin giữ trọn đá vàng cùng nhau..."
Người trong phủ bà Kiệu, từ gia nhân đến bà mối, nghe xong ai cũng cười nghiêng ngả, bảo rằng: “Ôi chao. Cậu Phú Tộp dẻo mồm quá! Bài thơ nghe có tình lắm chớ đùa."
Còn nàng Kiệu, nàng đọc xong thì mím môi, gật đầu tán thưởng: "Quả thực văn thơ của cậu Tộp đã cải thiện mấy phần." Rồi nàng xoay người, má hơi đỏ, nhưng vẫn chỉ nói một câu ngắn ngủn với đám đầy tớ:
“Để xem lòng người có bền không đã.”
Sau hôm ấy, cả vùng đều đồn rằng, trái tim nàng Kiệu, có lẽ đã bắt đầu động rồi. Và thế là Phú Tộp lại có thêm lý do để ngày đêm đeo đuổi.
Cuối cùng, khoảng chừng đủ một trăng (2), giai nhân một vùng cũng xiêu lòng.
-Hết chương 8-
Chú thích:
(1) Cúi lòn: Cúi lòn là hành động tỏ ra hèn mọn, khúm núm, luồn cúi trước người khác để được lợi hoặc tránh bị tổn hại. Nó mang ý nghĩa tiêu cực, thể hiện sự thiếu tự trọng, sẵn sàng nhún nhường một cách quá mức, đôi khi đến mức đáng khinh.
(2) Đủ một trăng: đủ một tháng.
Bình luận
Thanh Nguyễn
Hay quá tác già ơi 👏👏🙌🙌👏 hóng quá lun
Thanh Nguyễn
Có lịch đăng chương kh tác giả ơi
Lan Lyy 🐶🐶
Hay quá Tinh An ơi hóng chương mới
Thanh Nguyễn
Chưa có chương mới à tg oi
Thanh Nguyễn
Chưa có chương mới à tg oi
Thanh Nguyễn
Hú hú
Thủy Trần
Ra chương tiếp đi tác giả ơi truyện đúng gu hay lawmz
tô mỳ tôm
Lâu quá tác giả ơi, từ ngày 26 tháng 3 tới giờ dồiii ra chương đi ạ mình thích truyện tavs giả lắm
Minh Nhi Mê GL
Chưa có chương tiếp à tác giả ơi, lâu quá zịii
tô mỳ tôm
Alo tác giả, tác giả còn sống không tác giả ơi 😃😃😃
Thanh Nguyễn
Ôi tác giả owiii 😭😭😭😭😭😭😭 chương mới đâu