Trên bàn trải một tờ giấy tuyên lớn. Hương mực trên giấy hãy còn rất đậm.
Một bức thư họa, phía trên vẽ cánh chim giương cánh bay, dưới là một bài thơ. Thế nhưng thứ khiến cậu Đăng chú ý nhiều hơn lại là bài thơ viết bên dưới. Ba mươi hai chữ đều chằn chặn đặt ngay ngắn xếp hàng bên nhau. Dù trên trang giấy không có một dấu kẻ ô, vậy nhưng mỗi chữ dường như đều bị nhốt trong một cái ô vuông vắn, đều đặn.
Ba mươi hai chữ.
Thay vì đọc, cậu Đăng đã đếm số chữ xuất hiện trên tờ giấy ngay lần đầu tiên nhận được. Thật kỳ lạ. Vì sao chữ Nhất chỉ có một nét ngang mà đủ khiến người ta hình dung được trọn vẹn cái nhà tù vô hình đang vây lấy mình.
Ba mươi hai chữ ngay hàng thẳng lối.
Cha cậu dùng chữ để xác lập trật tự. Mọi thứ đều phải ngay hàng thẳng lối, phải có quy tắc và đúng theo khuôn khổ đã định. Nếu một ô chữ dám vượt lên, nó sẽ khiến cho cả câu hỏng hẳn, trở thành vô nghĩa.
“Đã lâu rồi cha không thử bút. Tiện đây tặng cậu cả một tờ đem về xem chơi.”
Cánh chim trời được vẽ rất đẹp, tỉ mỉ chuốt từng chiếc lông xòe rộng, ngay cả chiếc lông mọc lệch ra ở đuôi cũng được thể hiện tỉ mỉ. Bên dưới cánh và bụng chim đầy những lông tơ xòe trắng, khiến con chim trông như vừa mới ra ràng. Con chim trong tranh có cái cổ dài, đôi cánh không quá rộng, thực ra nhìn chẳng khác gì loài vịt giời. Nhưng bởi chúng luôn ôm mộng bay qua bốn biển, vượt qua cái hình hài quê mùa, vậy nên người ta gọi chúng bằng cái tên “hồng hộc” đẹp đẽ.
Yến tước an tri hồng hộc chi chí tai.
Nhạn én chẳng hiểu nổi chí của hồng hộc.
Có lẽ đó là ý của cha cậu, một lời nhắc nhở vì sự lơ đãng gần đây chăng?
Cậu Đăng thở dài, mang bức tranh ấy về phòng mình. Thằng Hậu đã chuẩn bị sẵn một chỗ để treo lên nhưng lại bị cậu từ chối. Bức tranh được đặt mở trên bàn. Cậu Đăng ngồi đó, cứ lặng lẽ nhìn nó. Có lúc cậu nghĩ về chiếc lông đuôi lệch ra, về những sợi lông tơ kỳ lạ của con chim, có lúc lại nghĩ đến những ô vuông vô hình khóa chặt từng chữ cái. Cho đến khi rời khỏi phòng học, bức tranh vẫn chưa được treo lên.
Vậy mà sáng hôm sau, khi cậu trở lại, đã thấy nó được treo ngay ngắn trên tường, ở một nơi dễ thấy, ngay trước mắt khi cậu đọc sách, viết chữ. Cậu đứng trước bức tranh, lặng lẽ nhìn nó. Hôm nay cậu mới thực sự để tâm đến những dòng thơ ấy.
“Hồng hộc cao phi,
Nhất cử thiên lý.
Vũ cách dĩ tựu,
Hoành tuyệt tứ hải.
Hoành tuyệt tứ hải…”
Lông cánh đã đủ, bay qua bốn bể, người ở lại ngóng trông mà chẳng thấy.
Nhạn sẻ tầm thường chẳng hiểu được chí lớn của hồng hộc. Nhưng chim mới đủ lông có thực bay được qua bốn biển, tuột được khỏi tầm cung tên.
“Vũ cách dĩ tựu,
Hoành tuyệt tứ hải.”
“Đủ lông đủ cánh, tung hoành bốn biển. Đủ lông đủ cánh, mới có thể tung hoành bốn biển…”
Cậu Đăng lầm bầm đôi câu thơ ấy, rồi chợt đổ nước, mài mạnh thanh mực trong nghiên. Mùi mực dần tản ra. Tay cậu mài rất mạnh, đến độ nước mực li ti bắn cả lên ống tay áo. Chiếc bút lông được rút ra, quệt vài đường thấm mực, rồi tì lên trang giấy đã rút sẵn. Cậu nhanh tay chép lại bài thơ ấy, cố gắng bắt chước cái nét chữ đóng khung kỳ lạ của cha mình. Thì ra cách viết này cực khó. Cậu không chỉ phải tự vẽ nên những ô vuông vô hình, phải biết giới hạn của chúng, rồi lại phải căn cho từng nét không chườm ra khỏi ô dù chỉ một li.
Mồ hôi dần thấm ra từ hai bên thái dương. Tờ giấy này vừa kín thì tờ giấy khác được thay vào. Mới đầu cậu còn kiên nhẫn cố gắng bắt chước nét bút của cha mình, nhưng càng cố, cậu càng nhận ra mình chẳng hiểu được trật tự của cha. Những con chữ từ tay cậu cứ nhảy mua theo cách riêng của nó. Rồi dần dần, cậu để mặc chúng tự tung bay trên tờ giấy. Chúng dần dần trượt ra khỏi khuôn khổ, những nét dài như thanh kiếm mới rèn, những nét cong như lưỡi câu lồng cả vào nhau. Rồi cậu lại cảm thấy mình quá vô kỷ luật, lại thử đưa những con chữ ấy vào hàng, vào ô.
Nhạn én chẳng hiểu nổi chí của hồng hộc. Nhưng hồng hộc bay tới mây, vượt qua bốn biển cũng chẳng hiểu được cách săn mồi của ưng cắt.
Cậu nghiến răng và mắt mờ đi chỉ trong khoảnh khắc.
Trên mỗi tờ, nét bút lại được biến đổi khác nhau. Bên tai cậu vọng lên tiếng vỗ cánh gấp gáp và tuyệt vọng. Cậu không cho phép mình ngừng lại, cứ mải miết lướt ngọn bút trên giấy.
Chẳng biết khi cậu chép Hồng hộc ca đó được bao lần thì bên ngoài có tiếng gọi khẽ.
“Thưa cậu, con mang trà đến cho cậu.”
Ngòi bút lông khựng lại. Tiếng gọi mềm nhẹ, rụt rè như kéo cậu khỏi một cơn mơ hỗn loạn.
Con bé đứng ngoài cửa, ngạc nhiên nhìn cậu. Ánh mắt nó làm cậu âm thầm giật mình. Trông cậu lạ lùng lắm sao? Chẳng phải cậu vẫn luôn ngồi viết chữ như bao ngày trước đó sao?
Nhưng chỉ một thoáng, con bé đã nhanh nhẹn thu lại sự ngạc nhiên trong đôi mắt. Nó bưng khay trà bước vào, vừa đi vừa nói.
“Bà lại bảo con lên đây hầu cậu chuyện trà nước. Thế là vòng đi vòng lại, con lại về hầu cậu. Có gì cậu cứ sai dặn con nhé.”
Nhạn bước vào, đặt khay trà nước lên bàn, tráng nước sôi một lượt, rót ra một chén. Cổ tay nó rất dẻo, nước sôi lướt đến miệng chén nhưng vẫn không tràn ra. Hơi nóng tản mạnh, che mờ những ngón tay nó. Cậu Đăng ngẩn người nhìn. Kể từ lúc Nhạn bước qua cửa, ánh mắt cậu chưa từng rời khỏi nó. Mùi trà thơm tản ra, xua bớt đi mùi mực nồng đậm.
Cậu cúi xuống, thấy tay mình dính đầy vết mực. Nhạn lại gần cúi đầu nhặt những tờ giấy rơi cả xuống đất.
Lúc này cậu Đăng mới nhìn lại. Những con chữ không chịu nghe lời, chỉ muốn vuột ra khỏi cái khung của mình, có đôi chữ nét bút rất đậm, dường như muốn đâm xuyên qua cả giấy.
Khi viết những chữ này, cậu đã nghĩ gì?
Dường như chẳng có gì rõ ràng, lại dường như trăm sự đều rõ ràng.
Nhạn cúi mình nhặt những tờ giấy, cẩn thận vuốt lại cho phẳng. Ánh mắt của cậu Đăng vẫn cứ dõi theo nó không buông. Nhạn vờ như không nhìn thấy. Hoặc thực sự là nó chẳng để tâm.
Mãi đến khi đặt những tờ giấy trở lại trên bàn, nó mới mỉm cười với cậu.
“Cậu làm rơi hết cả rồi.”
Vô vàn chữ cái lộn xộn được đặt trở lại bàn. Cậu Đăng nuốt nước bọt, mi mắt cụp xuống. Cây bút trong tay như một vật thừa thãi. Mực đã khô cả lại. Đầu bút nhọn hoắc như một lưỡi mác, muốn đâm xuyên cả giấy.
Cậu mở miệng, muốn hỏi Nhạn đã nhìn thấy cậu như thế nào khi bước vào đây? Ánh mắt ngạc nhiên của nó mang hàm ý gì?
“Chữ cậu đẹp ghê.” Con bé bất chợt nói, kéo cậu Đăng khỏi những suy nghĩ kỳ lạ.
“Đẹp à?”
“Vâng. Bà bảo con đến nhắc cậu nhớ luyện chữ. Vậy mà con vừa vào đã thấy cậu luyện được nhiều đến vậy. Hì hì.”
Con bé cười ngốc nghếch. Cậu Đăng nhìn những tờ giấy xếp đầy trên bàn. Một bên là những tờ giấy phẳng phiu không một nếp gấp, một bên là những tờ giấy đã nhuốm mực, hằn vết bút.
“Mày từng nói dù chẳng hiểu nhưng vẫn thấy chữ tao viết rất đẹp, đúng không?” Cậu Đăng chợt hỏi.
“Dạ phải ạ.”
Cậu Đăng rút một tờ giấy mới, quệt thêm mực. Lúc này cậu mới thấy tay mình đã lem luốc, chợt kéo ống tay áo, giấy bớt đi những vệt mực. Nhân lúc Nhạn còn chưa hiểu, cậu viết mấy chữ lên tờ giấy mới rồi đưa cho nó, hỏi lại.
“Đẹp không?”
“Dạ, đẹp lắm ạ.”
“Đẹp lắm sao?”
“Vâng ạ.” Con bé quả quyết gật đầu, lòng thầm nghĩ chữ cậu vẫn đẹp y như trên những bức trướng thêu, trên cột nhà, cột chùa, trên những câu đối đẹp đẽ ngày Tết.
Cậu Đăng bật cười.
“Mày biết tao viết gì không?”
“Không ạ.” Nó thành thật lắc đầu.
Cậu chỉ vào một chữ, cười nhẹ.
“Đó là chữ ‘ngu’ đấy.” Bàn tay cậu chỉ vào một chữ bên cạnh. “còn đây là tên mày.”
Con bé im lặng, nhìn chằm chằm vào tờ giấy, lâu đến độ cậu Đăng chợt thấy luống cuống. Chỉ vì muốn giải thoát cái nghẹn ứ cứ chặn ngang trong lồng ngực, vậy mà cậu lại bày ra một trò đùa quái ác như vậy. Có phải nó đã giận rồi không?
Cậu Đăng len lén nhìn khuôn mặt nó, nhưng con bé chỉ cúi đầu. Phía sau mi mắt cụp xuống có phải đang giấu một giọt nước mà nó chỉ có thể cố ngăn cho đừng rơi ra?
Kẻ vô minh bị đùa giỡn có biết đau lòng hay chăng?
Cậu Đăng vươn tay những muốn giật lại tờ giấy nhưng Nhạn đã nhanh hơn một bước.
Nó chỉ đúng vào chữ “nhạn”, thành khẩn hỏi lại.
“Vậy đây là tên con ạ?”
Cậu bối rối, bàn tay mới thoáng đưa ra đã ngại ngùng nắm lại. Hai tay cậu cọ vào nhau, cố làm vệt mực trên đó nhòa đi. Cậu gật đầu.
“Ừ, tên mày đấy.”
“Lần đầu tiên con biết tên con.” Con bé ngẩng đầu, khẽ cười với cậu, đôi mắt long lanh trong niềm vui lạ thường. “Con có thể giữ tờ giấy được không ạ?”
Lần này thì cậu ngạc nhiên quá đỗi. Nó vui mừng vì điều gì? Tên nó đi cùng với một chữ ngu si thì có gì đáng để vui?
“Mày thực sự muốn nó à?”
“Vâng ạ.”
“Để tao viết tờ khác.”
“Không cần đâu ạ. Đây là lần đầu tiên con thấy cậu viết tên con, cậu cứ cho con tờ này đi.”
Nó nói thế chứ thực ra bởi nó biết giấy viết của cậu cũng là thứ quý giá, nó chẳng dám để cậu phải tốn thêm một tờ cho cái tên của nó.
“Thôi được rồi. Lấy đi.”
Con bé cẩn thận vuốt phẳng tờ giấy, loay hoay không biết có nên gập lại, hay cứ thế mở ra rồi mang về. Chợt nó lén nhìn cậu chủ, thấy đôi môi cậu đã mím lại thành một đường. Nhạn không đoán ra cậu đang nghĩ gì. Nó xin tờ giấy này nên cậu không thấy thoải mái chăng?
Một bàn tay lấm đầy vết mực đưa ra, chìa về phía Nhạn.
“Đưa đây.”
Vậy là không cho nữa hả? Con bé luống cuống nhìn tờ giấy, lại có chút lưu luyến nhìn lại cái chữ tên mình thêm lần nữa rồi mới chịu đưa lại tờ giấy cho cậu chủ.
Cậu Đăng nhận lại tờ giấy, tỉ mẩn gập nó lại làm đôi, đường gập ngăn chia hai chữ trên giấy. Cậu miết đi miết lại cho đường gập ấy sâu hơn, đến khi áng như đã thành nếp, cậu mở nó ra, dùng con dao nhỏ trên kệ mà cắt đôi tờ giấy. Dưới con mắt nhìn chăm chú của Nhạn, cậu đưa mảnh giấy ghi chữ “Nhạn” cho nó.
“Cầm lấy.”
Con bé vui mừng, xoay xoay tờ giấy trong tay, lần nữa ngắm nghía cái tên mình. Cậu Đăng cuộn chữ “Ngu” ấy, đặt vào ngăn kéo của riêng mình. Cậu trả nó cái tên, giữ cái chữ “ngu” ấy cho mình. Thật chẳng ra làm sao.
Ấy vậy mà môi cậu lại khe câu lên thành một nụ cười nhàn nhạt.
Bình luận
Chưa có bình luận